Vấn nạn bức cung nhục hình ở VN

Luật sư Ngô Ngọc Trai

Trong vụ án oan của ông Nguyễn Thanh Chấn, ông này đã phải khai nhận một tội mà mình không hề phạm. Vậy ông Chấn có phải đã bị bức cung nhục hình hay không, và vấn đề khó là lấy đâu ra chứng cứ để có thể kết tội hành vi bức cung nhục hình?

Quy định của luật

Hiện chưa có con số thống kê cụ thể nhưng có thể hình dung số lượng các vụ án có tình trạng bức cung nhục hình ở Việt Nam là vô cùng lớn. Số trường hợp bị nhục hình thì không dám chắc nhưng nạn bức cung có khả năng xảy ra ở 100% các vụ án.

Vấn nạn bức cung phổ biến lớn rộng như thế không phải do một vài sai phạm nghiệp vụ mà nó có nguyên nhân từ chính sự cho phép của luật. Điều này có vẻ vô lý, luật nào cho phép được bức cung? Nhưng sự thực đúng là như thế.

Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định nghiêm cấm mọi hình thức truy bức nhục hình, tức là chỉ chấp nhận những lời khai tự nguyện. Nếu bị cáo không tự nguyện khai báo thì thôi, không được sử dụng bất kỳ thủ pháp nghiệp vụ nào buộc người ta phải khai, vì luật cấm mọi hình thức truy bức.

Nhưng Bộ luật hình sự lại có điều luật xử phạt tù đối với hành vi từ chối khai báo, theo đó Điều 308 quy định về tội từ chối khai báo đã viết rằng: Người nào từ chối khai báo hoặc trốn tránh việc khai báo mà không có lý do chính đáng thì có thể bị phạt tù từ ba tháng đến một năm.

Lý do chính đáng ở đây là gì? Để tự bảo vệ tính mệnh của mình có phải là một lý do chính đáng không? Nếu có thì trường hợp nào mà bị cáo chẳng có lý do chính đáng là tự bảo vệ mình? Như thế thì trường hợp nào bị cáo cũng phải có quyền từ chối khai báo chứ?

Tại sao bị cáo lại phải nói ra những điều mà nó chính là chứng cứ để người ta kết tội lại mình? Có ai là người tự nguyện trong việc này?

Như thế, chính quy định của luật đã tạo ra tình trạng bức cung nhục hình. Quy định như thế đã tạo cho điều tra viên tính hợp pháp về mặt luật pháp để bức cung, và giải thoát cho họ mặc cảm tội lỗi về mặt đạo đức nếu có. Và đó là lý do vì sao vấn nạn bức cung phổ biến ở hầu như 100% các vụ án.

Vấn đề của năng lực

Quy định của luật lệch lạc như thế không phải nhà làm luật không biết, mà họ có lý do để duy trì điểm mâu thuẫn vô lý đó.

Sự vô lý của luật thực ra là hệ quả phản ánh thực tế năng lực thực thi pháp luật của hệ thống tư pháp Việt Nam. Về mặt nghiệp vụ nếu không buộc được bị can khai báo thì điều tra viên không có đủ khả năng để xét đoán sự việc và điều tra nghi phạm.

Hoạt động điều tra là lần theo manh mối dấu vết tội phạm, mà muốn làm được điều này thì phải có khả năng xét đoán, ngoài ra cần có trang thiết bị máy móc hiện đại phục vụ cho công tác điều tra.

Nhưng ở Việt Nam thì cả hai vấn đề này đều thiếu, điều tra viên thì kém năng lực, thế mạnh chủ yếu dựa vào việc áp chế người khác, thể hiện qua việc bắt bớ giam cầm, bức cung nhục hình buộc phải khai nhận. Về mặt trang thiết bị máy móc thì có lẽ cũng còn thiếu sự đầu tư nhất định.

Vì tình hình thực tế như vậy cho nên khi soạn luật người ta đã lần lựa đưa vào hay bỏ ra các quy định như thế nào để phù hợp với năng lực thực tế của cơ quan điều tra.

Tức là nhà làm luật đã không được tự do thoải mái đứng hẳn về phía các chế định pháp lý văn minh tiến bộ.

Hệ quả là có những quy định luật mang tính nửa vời, vừa tỏ ra tiến bộ, nhưng xét kỹ lại là lổng hổng.

Tại sao luật không quy định bị cáo được quyền giữ im lặng và chỉ đồng ý khai báo khi có sự tham gia của luật sư bào chữa, như vậy sẽ đảm bảo tiệt nọc tình trạng bức cung nhục hình? Mà lại chỉ quy định nghiêm cấm mọi hình thức truy bức nhục hình, trong khi cả hai lối quy định cũng chỉ nhằm một mục đích là đảm bảo những lời khai phải là tự nguyện?

Đây là một chế định pháp lý văn minh tiến bộ để bảo vệ các quyền tự do dân chủ của công dân, không thể không đưa vào luật. Nhưng các nhà làm luật đã sử dụng xảo thuật để vừa tỏ ra tôn trọng chân giá trị vừa tìm cách đáp ứng đòi hỏi thực tế của hoạt động điều tra trong khi giải thoát cho mình khỏi mặc cảm tội lỗi ở khâu làm luật.

Các nhà soạn luật hẳn đã tự biện minh rằng, chúng tôi đã quy định nghiêm cấm mọi hình thức bức cung nhục hình rồi, còn thực hiện như thế nào là do thực tế và đó là trách nhiệm của cơ quan điều tra.

Họ đã bỏ qua tình hình thực tế về điều kiện giam giữ người và quy trình làm việc không bị giám sát của cơ quan điều tra. Thực tế như vậy cộng hưởng với quy định lập lờ nửa vời của luật đã dẫn đến vấn nạn bức cung nhục hình phổ biến rộng khắp.

Cho nên vấn nạn bức cung nhục hình phải giải quyết ở khâu soạn luật chứ không chỉ giải quyết ở khâu thực thi pháp luật.

Các nhà soạn luật cũng tìm cách để xoa dịu hậu quả của tình trạng bức cung nhục hình bằng cách đưa vào chế định rằng nếu thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải sẽ được đánh giá là tình tiết giảm nhẹ để giảm mức án cho bị cáo.

Việc này cũng giúp lấp liếm đi tình trạng bức cung của cơ quan điều tra. Có những vụ án bị cáo ban đầu chối bay chối biến, sau khi bị bức cung nhục hình thì đã khai nhận hành vi phạm tội, đến khi xét xử lại được đánh giá là thành khẩn khai báo và được giảm án.

Biết bao nhiêu vụ án đã như vậy, nhưng chẳng mấy ai thắc mắc là vì đâu bị cáo thay đổi lời khai từ chối tội sang nhận tội.

Vấn đề niềm tin

Vấn nạn bức cung nhục hình không chỉ phản ánh năng lực trình độ của cán bộ điều tra mà nó còn phản ánh nhận thức lệch lạc của những người giải quyết án, bao gồm cả kiểm sát viên, thẩm phán, luật sư.

Ở Việt Nam lâu nay người ta đặt rất nặng vấn đề chứng cứ và yêu cầu việc xử án phải theo chứng cứ. Nhận thức này xem qua thì cho đó là lối làm việc khách quan khoa học đảm bảo tính chắc chắn và thực ra thì việc đòi hỏi phải có chứng cứ là tốt và đương nhiên.

Nhưng nó sẽ là sai lầm nếu coi chứng cứ là vấn đề duy nhất khi giải quyết một vụ án.

Trong vụ oan sai của ông Nguyễn Thanh Chấn, khi nêu ra vấn đề cần xử lý các điều tra viên về tội bức cung nhục hình thì có ý kiến thắc mắc là lấy đâu ra chứng cứ chứng minh việc bức cung nhục hình?

Đây thực ra là một nhận thức sai lệch nghiêm trọng của không chỉ người dân mà cả các chuyên gia về luật, mà từ đó góp phần tạo nên vấn nạn bức cung nhục hình.

Chúng ta biết rằng chứng cứ nhằm để chứng minh, chứng minh nhằm để thuyết phục, vậy nếu sự việc đã đủ sức thuyết phục rồi, sự thật đã hiển nhiên rồi thì không cần phải chứng minh nữa và không cần chứng cứ.

Ông Chấn nếu không bị bức cung nhục hình thì tại sao lại nhận một tội mà mình không hề phạm? Mà cái tội đó nào có nhẹ nhàng gì, nếu bố ông Chấn không phải là liệt sĩ nên ông Chấn được giảm án thì có lẽ ông đã bị tử hình rồi.

Việc ông Chấn bị bức cung nhục hình là điều không còn có thể tranh cãi nữa.

Mặc dù không hề có chứng cứ nhưng chúng ta có thể xác quyết bằng niềm tin.

Niềm tin nội tâm

Trong lĩnh vực tư pháp có một khái niệm là “niềm tin nội tâm”. Niềm tin này là cơ sở xét đoán của mọi người tham gia vào hoạt động xét xử. Cả điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, luật sư đều phải dựa vào niềm tin nội tâm để xét đoán sự việc.

Bởi vì tất cả những người này dù thế nào đi nữa thì họ cũng không phải là bị cáo, họ không thể chắc chắn bị cáo có phải là hung thủ hay không. Cho nên khi quy kết buộc tội hay bào chữa gỡ tội chỉ có thể dựa vào niềm tin nội tâm.

Niềm tin nội tâm được tạo thành từ những hiểu biết về vụ án thông qua các tài liệu chứng cứ, qua nghiên cứu hiện trường, hồ sơ vụ án, thông tin về nhân thân bị cáo …

Ở Việt Nam lâu nay, khi xét xử người ta ít sử dụng đến niềm tin nội tâm, và khái niệm niềm tin nội tâm chỉ nằm gọn hạn hẹp trong các nghiên cứu về học thuật. Lý do có lẽ vì niềm tin là thành tố có tính tôn giáo trong khi chính thể hiện tại là vô thần.

Thay vì xét xử dựa vào niềm tin nội tâm trong đó chứng cứ thỉ là một thành tố tạo thành (ngoài chứng cứ còn cần trình độ kinh nghiệm để tạo nên niềm tin xét đoán), việc xét xử đặt nặng vào chứng cứ, chứng cứ thế nào không quan trọng, miễn là phải có chứng cứ.

Vì lối làm việc như thế nên người ta phải tìm ra bằng được chứng cứ, và khi khó khăn trong các lối điều tra khác thì dễ nhất là bắt giam bức cung buộc bị can phải khai báo.

Luật cũng phụ họa cho việc này khi bỏ qua tính khách quan khoa học đã quy định lời khai của bị can cũng là chứng cứ.

Nếu giải quyết án phải có chứng cứ rõ ràng thì chỉ cần một người phán quyết là đủ, cần gì phải hội đồng nhiều người, mà cũng chỉ cần một lần xét xử là được cần gì phải qua hai cấp xét xử.

Cái lối xét xử đặt nặng chứng cứ mà không dựa vào niềm tin nội tâm sẽ không lý giải được là dựa vào đâu mà người ta có thể tuyên một người là có tội hay không trong khi vụ án có cả chứng cứ kết tội và chứng cứ gỡ tội.

 

Luật sư Ngô Ngọc Trai

Giám đốc Công ty luật TNHH Công chính

Bài đã đăng trên BBC tại đây: Google search: ‘Vấn nạn bức cung nhục hình ở VN’