Trong vụ án Hồ Duy Hải được cho là có tới 25 biên bản lời khai nhận tội, các cơ quan tố tụng đã căn cứ vào nội dung các biên bản lời khai này để kết án Hải là thủ phạm.
Là luật sư đã có kinh nghiệm từ việc minh oan cho tử tù Hàn Đức Long trước đây tôi thấy việc kết tội dựa vào 25 biên bản lời khai này tồn tại một vấn đề pháp lý.
Đầu tiên xin nhắc lại vụ án oan trước đây của các ông Nguyễn Thanh Chấn, Huỳnh Văn Nén, Hàn Đức Long đều đã được minh oan, trong khi trước đó họ đều bị kết tội, vậy các cơ quan tố tụng đã căn cứ vào đâu?
Việc gây ra oan sai ngoài nguyên nhân từ người thực thi pháp luật thì bản thân các quy định pháp luật đã hợp lý đúng đắn hay chưa? Phải chăng còn tồn tại những quy định sai lệch khiến dẫn đến án oan?

Lý do gì đã khiến một hệ thống gồm nhiều cơ quan tư pháp, từ địa phương tới trung ương, với những cán bộ tư pháp dày dạn kinh nghiệm lại cùng nhầm lẫn gây oan? Sự sai lầm đó lại xảy ra ở nhiều tỉnh thành khác nhau, vậy nguyên nhân chung là gì, điều gì đã che mắt họ?
Nguyên nhân được chỉ ra dưới đây xuất phát từ nhận thức sai lệch của nhà làm luật về khoa học pháp lý đưa đến một quy định pháp luật sai, để rồi cán bộ tư pháp hàng ngày áp dụng mà vẫn xem là thường.
Trọng chứng hơn trọng cung
Không rõ từ khi nào trong lịch sử tố tụng hình sự xuất hiện câu nói trọng chứng hơn trọng cung, có ý nghĩa như một sự nhắc nhở trong việc xét xử tội phạm cần coi trọng chứng cứ hơn những lời cung khai.
Tìm hiểu kỹ thì thấy, câu nói quan trọng ở chỗ đó là ở thời điểm hình thành câu nói thì trong nhận thức người ta đã phân biệt sự khác nhau giữa chứng cứ và lời khai.
Chứng cứ và lời khai cùng được sử dụng trong việc tìm kiếm sự thật vụ án, nhưng chứng cứ lại được đánh giá quan trọng hơn lời khai, và chính sự so sánh quan trọng hơn cho thấy tồn tại sự phân biệt khác nhau.
Vì nếu đánh đồng giống nhau thì đã không phân biệt, ví như nhân chứng và vật chứng cùng là chứng cứ và cùng quan trọng cho nên không có sự phân biệt.
Không có sự phân biệt giữa nhân chứng và vật chứng, nhưng lại phân biệt giữa chứng cứ và lời khai, như vậy đã xác lập sự khác nhau giữa chứng cứ và lời khai.
Vậy sự phân biệt khác nhau có ý nghĩa gì và tại sao câu nói lại quan trọng trong việc tìm kiếm lý giải nguyên nhân gây oan?
Là vì theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì thay vì phân biệt khác nhau, nhà làm luật đã đánh đồng trộn lẫn chứng cứ với lời khai khi quy định lời khai cũng chính là chứng cứ.
Cụ thể Điều 64 Bộ luật hình sự năm 2003 (văn bản có hiệu lực ở thời điểm xảy ra vụ án Hồ Duy Hải) quy định:
Điều 64. Chứng cứ:
- Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án.
- Chứng cứ được xác định bằng:
- A) Vật chứng;
- B) Lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;
- C) Kết luận giám định;
- D) Biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác.
Theo quy định trên thì lời khai cũng được xác định là chứng cứ và được xem xét đánh giá ngang hàng với vật chứng, trong khi rất lạ điều luật về chứng cứ lại không nhắc đến ‘nhân chứng’ như một phần tương ứng với ‘vật chứng’.
Thay vì nêu ra ‘nhân chứng’ điều luật lại quy định về ‘lời khai của người làm chứng’ trong khi đây là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau.
Một đằng là ‘nhân chứng’ nói về chủ thể con người có ý chí, còn đằng kia ‘lời khai’ là nói về một dạng thức biểu đạt của chủ thể trong môi trường hồ sơ pháp lý.
Tại sao nhà làm luật lại lẫn lộn giữa chủ thể và một dạng thức biểu đạt của nó?
Sự nhầm lẫn xem ra không phải là vô ý mà có mục đích, vì khi quy định như vậy và bằng cách tương tự nhà làm luật đã có thể đánh đồng trộn lẫn lời khai của người làm chứng và lời khai của bị can, bị cáo để cùng được coi là chứng cứ.
Mục đích là nhằm sử dụng được cái có sẵn trong các vụ án đó là lời khai của bị can, bị cáo.
Trong khi bị can vì đã là nghi phạm rồi thì không thể coi là nhân chứng được nữa (một chủ thể không ở hai tư cách), song khi tách bị can ra khỏi dạng thức biểu đạt là lời khai thì lại có thể sử dụng lời khai để kết tội.
Bằng cách đó nhà làm luật đã xác lập bổ sung thêm một loại chứng cứ mới là lời khai ngoài cái nguyên gốc chỉ bao gồm nhân chứng và vật chứng.
Điều này trái với các nguyên lý khoa học tư pháp, làm giảm sút sự chính xác trong việc phán đoán, từ đó dẫn đến nhầm lẫn oan sai.
Do pháp luật đã quy định như vậy, coi giá trị lời khai cũng quan trọng như các chứng cứ khác, cho nên các cán bộ tư pháp hàng ngày vận dụng điều luật mà không thấy được đó là nguyên nhân gây ra oan sai.

Nguyên nhân gây oan giống nhau
Trên thực tế nhiều vụ án thực chất không hề có nhân chứng vật chứng nhưng người ta vẫn kết tội được do sử dụng lời khai. Trong các vụ án thường viện dẫn các bút lục lời khai của bị can bị cáo làm cơ sở bằng chứng để kết tội.
Khi đó việc kết tội không những không thực hiện theo lời khuyến cáo trọng chứng hơn trọng cung mà thực chất chỉ sử dụng lời cung vì không có chứng cứ.
Trong vụ án Hồ Duy Hải không có nhân chứng hay bất cứ chứng cứ vật chất nào cho thấy Hải là thủ phạm. Ngoài những thứ bị tiêu hủy mất mát như ghế gấp, chiếc thớt gỗ, mẫu máu bị hỏng, con dao bị hủy, thì những vòng vàng, nhẫn vàng bị cho là Hải lấy cũng không thu giữ lại được, chiếc điện thoại di động của hai cô gái cùng các sim thẻ điện thoại bị lấy đi cũng không thu thập lại được.
Không có nhân chứng, vật chứng, đúng ra không thể kết tội được, nhưng thực tế các cơ quan tố tụng vẫn kết tội được nhờ dựa vào lời khai, và bởi vì pháp luật quy định lời khai cũng là chứng cứ.
Cho nên một trong những nguyên nhân gây ra oan sai đó là nhận thức sai của nhà làm luật về chứng cứ, đã quy định đánh đồng trộn lẫn coi lời khai cũng có giá trị ngang hàng với nhân chứng, vật chứng khác.
Luật sư Ngô Ngọc Trai