Án oan Hàn Đức Long công văn kêu cứu thứ 4

ĐOÀN LUẬT SƯ TỈNH NAM ĐỊNH

VĂN PHÒNG LUẬT SƯ

NGÔ NGỌC TRAI VÀ CỘNG SỰ

Số: 07/2013/CV-VPLS

V/v Án oan Hàn Đức Long, kiến nghị sửa đổi tố tụng hình sự

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

——–o0o———

 

Nam Định, ngày 19  tháng  02  năm 2013

CÔNG VĂN THỨ 4

(Kêu cứu khẩn cấp vì bị cáo đang sắp bị thi hành án tử hình)

Kính gửi:

– CHỦ TỊCH NƯỚC TRƯƠNG TẤN SANG

– CHÁNH ÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

– VIỆN TRƯỞNG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

– TRƯỞNG BAN NỘI CHÍNH TRUNG ƯƠNG

 

Văn phòng luật sư Ngô Ngọc Trai và Cộng sự kính gửi tới Quý ông lời chào trân trọng, kính mong được cứu giúp một việc như sau:

Trong các ngày 16/1, 23/1, 30/1 năm 2013 chúng tôi đã kính gửi tới Quý ông 3 công văn kêu cứu khẩn cấp về vụ án Hàn Đức Long, nay chúng tôi có công văn thứ 4 kiến nghị về vụ án, trọng tâm là kiến nghị sửa đổi một số quy định của bộ luật tố tụng hình sự được liên hệ dẫn chứng từ vụ án oan sai nghiêm trọng này, kính mong được quan tâm.

I/ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA VỤ ÁN

Năm 2005 huyện Tân Yên tỉnh Bắc Giang xảy ra vụ trọng án thương tâm gây chấn động dư luận, một bé gái 5 tuổi bị hiếp và giết chết vứt xác tại mương nước ngoài cánh đồng. Sau 4 tháng kể từ ngày xảy ra vụ án, cơ quan điều tra công an tỉnh Bắc Giang do định hướng điều tra sai ngay từ đầu hoặc có thể vì những yếu kém nghiệp vụ nên không tìm ra manh mối thủ phạm. Phải chịu nhiều áp lực, cơ quan điều tra phát động phong trào tố giác tội phạm trong quần chúng nhân dân, đề nghị bà con trình báo về những sự việc từ trước nay có ai bị hiếp dâm, hoặc biết được hành vi tình dục bất thường của ai đó. Cơ quan điều tra nhận được đơn tố cáo của hai mẹ con, một bà cụ 70 tuổi và người con gái 50 tuổi đều tố cáo bị người cùng thôn là Hàn Đức Long hiếp dâm. Cơ quan điều tra bắt giam Hàn Đức Long để điều tra, trong quá trình hỏi cung cơ quan điều tra có được bản tự thú của Long thú nhận là thủ phạm hiếp giết cháu bé 5 tuổi.

Hồ sơ điều tra thể hiện bị cáo đã thú nhận tội, nhưng mọi khi ra tòa bị cáo đều chối tội. Bị cáo khai rằng mình bị đánh đập bức cung nhục hình ép phải nhận tội. Bị cáo khai rằng đã bị hành hạ tưởng rằng sẽ chết ngay trong khi giam giữ, bị cáo phải nhận tội để có cơ hội được sống ra trước tòa mà nói lên sự thật mình không phạm tội, bị cáo sợ rằng sẽ chết mà không được gặp mặt vợ con để nói rằng mình bị oan. Bị cáo khai rằng bị cán bộ điều tra yêu cầu viết bản tự thú nhận tội theo lời cán bộ điều tra đọc, khi không viết liền bị cán bộ điều tra dùng chiếc bút bi đâm thẳng vào bàn tay. Hội đồng xét xử cho rằng bị cáo chối tội là do sợ chết và tin vào lời khai nhận tội của bị cáo trong hồ sơ nhưng không tin vào lời khai của bị cáo tại tòa.

Trong thời gian điều tra lại vụ án, một lãnh đạo cơ quan điều tra bị chết, kiểm tra tủ hồ sơ của ông này thì thấy có 49 bút lục tài liệu liên quan đến vụ án Hàn Đức Long nhưng không được đưa vào hồ sơ vụ án. Các tài liệu cho thấy trước thời điểm tố cáo bị hiếp dâm, gia đình hai mẹ con nạn nhân và gia đình Hàn Đức Long đã xảy ra mâu thuẫn đánh nhau vì tranh chấp đất đai. Hàn Đức Long đã đánh gây thương tích cho con trai của bà cụ và đánh vào đầu vợ của anh này, chính quyền địa phương đã xử phạt buộc Hàn Đức Long bồi thường cho bị hại 1,6 triệu đồng. Người con dâu bị đánh chính là người đã viết đơn cho mẹ chồng và chị chồng tố cáo bị hiếp dâm. Ngoài ra trong số 49 tài liệu có một số bản viết tay đơn tự thú của Long nhưng chưa hoàn chỉnh không được đưa vào hồ sơ vụ án.

Tại 4 bản án gồm sơ thẩm, phúc thẩm lần 1, lần 2 Hội đồng xét xử các cấp đều xác định không đủ căn cứ kết tội Long hiếp dâm hai mẹ con bà cụ và tuyên Hàn Đức Long không phạm tội hiếp dâm, nhưng tuyên Long phạm tội hiếp dâm trẻ em và giết người. Bị cáo Hàn Đức Long khi ra tòa đã nhiều lần phủ nhận việc hiếp dâm hai mẹ con và cho đó là sự trả thù cá nhân nhưng không được các cơ quan lưu tâm.

Trong thời gian điều tra lại, phía gia đình bà cụ đã xin rút lại nội dung tố cáo Hàn Đức Long hiếp dâm, tuy nhiên sau đó cán bộ điều tra tiếp tục làm việc với gia đình, lấy lại lời khai thì người con trai đại diện cho bà cụ khai báo lại giữ nguyên nội dung tố cáo.

Cơ quan điều tra bắt giữ và kết tội Hàn Đức Long mà không dựa trên bất cứ một chứng cứ trực tiếp liên hệ nào giữa bị cáo và vụ án hiếp giết cháu bé 5 tuổi. Hồ sơ kết tội dựa vào chính lời khai nhận tội của bị cáo và một số tài liệu được tạo dựng. Với lý do và cơ sở bắt giữ như vậy nên khả năng oan sai là sự thật, điều này được bộc lộ rõ khi có rất nhiều điểm mâu thuẫn bất hợp lý trong hồ sơ vụ án đã được trình bày trong các công văn trước.

II/ KIẾN NGHỊ SỬA ĐỔI MỘT SỐ QUY ĐỊNH BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ

  1. 1.Quy định quyền được giữ im lặng của bị can bị cáo

Xét về bản chất con người thì không ai phản bội lại chính mình. Việc có lời khai ngày hôm nay có thể là tài liệu chống lại mình ngày mai thì bình thường không ai muốn khai báo. Trong thực tế, chỉ do bị truy bức nhục hình thì người ta mới phải khai báo.

Xét về bản chất của luật pháp, việc điều tra xử lý tội phạm chính nhằm bảo vệ luật pháp, bảo vệ các quyền công dân, như vậy việc bức hiếp buộc bị can phải khai báo lại đã xâm phạm tới một quan hệ pháp luật khác cũng được pháp luật bảo vệ, đó là quan hệ pháp luật về quyền được bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự nhân phẩm của công dân.

Như vậy việc xử lý vụ án ban đầu mang ý nghĩa tốt, tích cực đã được thực hiện bằng những cách thức phản lại chính ý nghĩa ban đầu của nó. Đây rõ ràng là sự bất dung hòa về thang giá trị giữa phương tiện và mục tiêu.

Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 6 quy định: Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình.

Quy định như trên nhưng xét về điều kiện giam giữ người ở Việt Nam hiện nay: phòng giam thì chật hẹp, điện nước sinh hoạt thiếu, thức ăn nghèo dinh dưỡng, có hiện tượng bị người giam giữ chung hành hạ, không được thăm gặp người thân, không được tiếp cận với sách báo truyền hình… Với điều kiện giam giữ như vậy con người sẽ suy kiệt về sức khỏe, sa sút về tinh thần, lợi dụng tình trạng đó để lấy lời khai đó chính là một hình thức truy bức nhục hình.

Thực tế việc truy bức nhục hình vẫn xảy ra dưới hình thức này hình thức khác. Để giải quyết tình trạng này cần quy định bị can bị cáo được quyền giữ im lặng hoặc chỉ đồng ý khai báo khi việc lấy lời khai có sự tham gia của luật sư bào chữa. Đây cũng là quy định văn minh tiến bộ mà tố tụng hình sự nhiều nước đã quy định.

Vụ án oan Hàn Đức Long là một mẫu mực cho tình trạng bị can bị cáo bị truy bức nhục hình. Điều gì đã ép một con người phải khai báo nhận một tội mà họ không hề phạm? Điều gì đã khiến cho một người nhận tội mà họ có thể bị tuyên tử hình? Điều gì đã buộc một người không chỉ nói bằng miệng nhận tội mà còn phải viết bằng tay những lời nhận tội mà mình không hề phạm? Vụ án oan này cho thấy việc truy bức nhục hình là đặc biệt nghiêm trọng.

2. Quy định lời khai của bị can bị cáo không là chứng cứ

Bộ luật tố tụng hình sự hiện tại quy định chứng cứ như sau:

Điều 64. Chứng cứ

1. Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án.

2. Chứng cứ được xác định bằng:

A) Vật chứng;

B) Lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;

C) Kết luận giám định;

D) Biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác.

Quy định chứng cứ là những gì có thật là chưa đủ, cần bổ sung thêm chứng cứ phải mang giá trị khách quan. Bởi lẽ đương nhiên có việc bị cáo khai báo, đó là cái có xảy ra và đó là sự thật. Việc bị cáo có khai báo là cái có thật hiện hữu nhưng nội dung của lời khai báo có đúng sự thật khách quan không? Sự thật ở đây là điều cần thiết ở nội dung khai báo chứ không phải bản thân việc khai báo. Rõ ràng khi bị cáo khai báo có lợi hay bất lợi cho chính mình thì cũng đều không khách quan, do vậy có thể cho rằng nội dung khai báo hoàn toàn là không đáng tin cậy, không đúng sự thật do vậy không nên được sử dụng làm chứng cứ làm rõ sự thật vụ án.

Quy định về chứng cứ như hiện tại chỉ nặng yếu tố hình thức thủ tục thu thập mà không làm nổi bật lên yêu cầu quan trọng mang tính bản chất của chứng cứ là cái tồn tại khách quan ở thời điểm xảy ra vụ án và có thể giúp làm sáng tỏ vụ án.

Cung cần sửa đổi lại, chỉ nên quy định chứng cứ gồm nhân chứng, vật chứng và tài liệu giám định. Các tài liệu khác như biên bản hoạt động điều tra xét xử thì đó là các giấy tờ mang tính kỹ thuật, kết quả hoạt động sau này do cán bộ điều tra làm ra nó không phải là chứng cứ, đó đơn thuần chỉ là các tài liệu trong hồ sơ vụ án giống như các quyết định khởi tố vụ án, lệnh bắt giam, đó không phải là chứng cứ khách quan tồn tại ở thời điểm xảy ra vụ án.

Quy định lời khai của bị can bị cáo cũng là chứng cứ nên thực tế đã xảy ra tình trạng là cơ quan điều tra thay vì nhọc công đi tìm các tài liệu bằng chứng xác thực khác, họ chỉ xoáy sâu vào việc bắt giam sau đó truy bức nhục hình cho người này khai nhận hành vi phạm tội, từ đó cho ra kết luận điều tra.

Khi bị truy bức nhục hình người khai báo có thể nói ra sự thật nhưng cũng có thể nói sai sự thật theo hướng của người hỏi cung, mục đích là nhằm thoát khỏi tình trạng bị truy bức nhục hình, còn nội dung khai báo có thể không đúng sự thật.

Trong vụ án oan Hàn Đức Long quan điểm kết tội dựa vào chính lời khai nhận tội của bị cáo, ngoài ra hồ sơ không có bất cứ một nhân chứng, vật chứng nào cho thấy bị cáo là thủ phạm. Tất cả những tài liệu kết tội đều là sản phẩm của hoạt động điều tra được xây dựng sau thời điểm vụ án xảy ra, tức là không tồn tại ở thời điểm xảy ra vụ án, do vậy đó không mang bản chất thực của chứng cứ.

3. Cán bộ điều tra phải là người tham gia tố tụng

Bộ luật tố tụng hình sự hiện tại quy định cán bộ điều tra là người tiến hành tố tụng mà không phải là người tham gia tố tụng, điều này cần sửa lại theo hướng cán bộ điều tra cũng là người phải tham gia tố tụng tại phiên tòa.

Mục đích của phiên tòa là thẩm tra lại các tài liệu chứng cứ để xác định sự thật khách quan của vụ án, do vậy việc thẩm tra lại xem quy trình thu thập chứng cứ, do đâu mà cơ quan điều tra có được chứng cứ, có được bằng cách nào? Để từ đó cho thấy chứng cứ có đảm bảo giá trị khách quan hay không và có cơ sở để tin cậy hay không?

Hiện nay cán bộ điều tra sau khi điều tra không phải tham gia tố tụng do vậy không có điều kiện để xác định lại quy cách thu thập chứng cứ, không có cơ hội đối chất giữa cán bộ điều tra và bị cáo trong việc xác định truy bức nhục hình? Như vậy là mặc định các chứng cứ được thu thập đều là hợp pháp? Điều này rõ ràng là không hợp lý, nếu chứng cứ được thu thập không hợp pháp thì đó không có giá trị pháp lý.

III/ KÍNH MONG ĐƯỢC CỨU GIÚP

1. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang là Trưởng ban chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương. Chúng tôi hiểu rằng trọng tâm của cải cách tư pháp là hoạt động điều tra, xét xử. Vụ án oan Hàn Đức Long là điển hình cho việc trong điều tra còn hiện tượng bức cung nhục hình, trong xét xử còn mang nặng yếu tố họp duyệt án từ trước giữa các cơ quan nội chính, kết quả tuyên án chưa dựa vào kết quả tranh luận tại phiên tòa.

Đức phật dạy rằng cứu một mạng người phúc đẳng hà sa, Kính mong Chủ tịch nước ân giảm án tử hình cho bị cáo Hàn Đức Long, thời gian gấp gáp, có người đang mong cho bị cáo chết sớm để vụ việc được khép lại. Kính mong chủ tịch nước cứu giúp.

2. Kính mong Chánh án TAND tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao căn cứ Điều 273 Bộ luật tố tụng hình sự, ra quyết định kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm với hai lý do: 1. Kết luận trong bản án hoặc quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án; 2.Có sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong khi điều tra, truy tố hoặc xét xử;

3. Chúng tôi được biết thẩm quyền của Ban nội chính trung ương là: Nghiên cứu, đề xuất những quan điểm, định hướng lớn của Đảng về công tác xây dựng pháp luật, về tổ chức và hoạt động của các cơ quan nội chính (được xác định gồm viện kiểm sát, tòa án, tư pháp và các cơ quan có chức năng tư pháp trong công an, quân đội). Đề xuất với Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN cho chủ trương, định hướng xử lý một số vụ việc, vụ án.

Chúng tôi nhận thức rằng Ban nội chính trung ương có thẩm quyền và trách nhiệm xem xét lại vụ án oan sai Hàn Đức Long vì vụ án này có liên quan đến hoạt động của các cơ quan thuộc khối nội chính (gồm cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án), và liên quan đến sửa đổi một số quy định khiếm khuyết của bộ luật tố tụng hình sự thuộc công tác xây dựng pháp luật thuộc mảng vấn đề thẩm quyền của Ban nội chính trung ương.

Do vậy chúng tôi kính mong Ban nội chính trung ương nhận lãnh trách nhiệm xem xét cứu vớt bị cáo trong vụ án oan sai này.

Trên đây là mấy nội dung kiến nghị, xin được quan tâm cứu giúp!

Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn!

Thông tin xin liên hệ: Văn phòng luật sư Ngô Ngọc Trai và Cộng sự, địa chỉ: 106/1 Lương Thế Vinh, phường Trần Đăng Ninh, TP Nam Định. Luật sư Ngô Ngọc Trai, điện thoại 0906117641

Tại Hà Nội: Liên hệ LS Ngô Ngọc Trai, Số 62 Thái Thịnh II, Hà Nội

VĂN PHÒNG LUẬT SƯ

NGÔ NGỌC TRAI VÀ CỘNG SỰ

 

 

Đã ký

Luật sư NGÔ NGỌC TRAI