Án tử hình không có tác dụng răn đe ngăn chặn tội phạm

 

Ngày 17/11/2025 tới đây Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội sẽ đưa ra xét xử sơ thẩm đối với Cao Văn Hùng, sinh năm 1973, về tội Giết người và Hủy hoại tài sản.

Trước đó vào ngày 18/12/2024 do mâu thuẫn thù tức với nhân viên một quán café trên đường Phạm Văn Đồng, Hà Nội, Hùng đã mua xăng phóng hỏa đốt quán khiến cho 11 người tử vong.

Hành vi của bị cáo đã gây phẫn nộ dư luận ở thời điểm xảy ra vụ việc và tới nay thông tin vụ án đưa ra xét xử một lần nữa gợi nhắc tới vấn đề về án tử hình.

Tác dụng răn đe

Luận điểm cho rằng hình phạt tử hình sẽ có tác dụng răn đe để ngăn chặn những hành vi phạm tội là một lý lẽ có sức nặng thuyết phục, nhưng những điều dễ nghe không có nghĩa là nó sẽ đúng.

Để có được quyết định chính sách đúng đắn về án tử hình cần dựa trên nghiên cứu đánh giá có tính khoa học cùng những phân tích về tâm lý hành vi con người.

Khi bàn về án tử hình trước nay đã vài lần tôi lập luận cho rằng nếu làm một cuộc khảo sát đặt câu hỏi cho những người phạm tội trong các vụ án giết người rằng trước khi gây án có khi nào nghĩ về hình phạt hay không, họ có khi nào dừng lại nghĩ về án tử hình.

Câu trả lời của họ sẽ là một dữ liệu thống kê có giá trị để cho biết án tử hình có tác dụng ra sao trong việc răn đe ngăn chặn hành vi phạm tội.

Suy nghĩ tới điều đó là bởi vì tôi là một luật sư đã có kinh nghiệm bào chữa cho nhiều thân chủ tử tội, qua đó thấy được số lượng những người bị kết án tử hình do phạm những tội như giết người vốn là nguồn có sẵn giúp cho việc khảo sát hoàn toàn có thể khả thi.

Cũng từ kinh nghiệm của luật sư bào chữa điều nhận thấy qua các vụ án là có những vụ án giết người mà hành vi được thực hiện một cách bộc phát chóng vánh trong thời gian ngắn mà bản thân bị cáo cũng không có thời gian suy nghĩ.

Hoặc cũng có những vụ án giết người đã được chuẩn bị từ trước nhưng bị cáo chỉ suy nghĩ đến những việc xóa bỏ dấu vết để tránh bị phát hiện chứ không nghĩ về án tử hình như là một mối lo để dừng lại hành vi phạm tội.

Các trường hợp đều cho tôi thấy hình phạt tử hình không có tác dụng răn đe ngăn chặn hành vi phạm tội.

Ý định phạm tội

Có ý kiến cho rằng việc khảo sát đối với những người đã phạm tội là cách làm có tính thiên vị bởi vì đằng nào đó cũng là những trường hợp đã gây án rồi thì hình phạt tử hình hẳn đương nhiên là đã không có tác dụng răn đe.

Theo đó ý kiến cho rằng có thể tiến hành khảo sát hỏi ý kiến đối với những người bình thường xem hình phạt tử hình có tác dụng răn đe ngăn họ phạm tội hay không.

Tôi thấy rằng nếu đặt câu hỏi đối với một người bình thường nghĩ gì về hình phạt tử hình và có sẵn sàng phạm tội hay không nếu biết bản thân sẽ bị kết án tử, người được hỏi nếu suy nghĩ nghiêm túc sẽ bảo rằng hình phạt tử hình quả là đáng sợ đấy và bản thân sẽ không phạm tội đâu.

Nhưng thực ra một người bình thường không có ý định phạm tội thì sẽ không phạm tội ngay cả trong trường hợp không có gì răn đe họ cả. Việc đặt câu hỏi khảo sát với một người bình thường sẽ không có ý nghĩa.

Đánh giá tác dụng răn đe của hình phạt tử hình thì phải xét đối với những trường hợp có ý định phạm tội, để xem hình phạt tử hình có khiến người ta dừng lại ý định phạm tội hay không.

Nhưng ý định phạm tội thì lại rất khó xác định được từ bên ngoài bởi đó là điều thầm kín có những động cơ mục đích hoàn cảnh đằng sau, không thể biết được ai đang có ý định phạm tội để mà đặt câu hỏi khảo sát với người đó.

Cho nên để việc khảo sát có thể thực hiện được thì chỉ có thể áp dụng đối với những người đã được xác định là có ý định phạm tội và thực tế là họ đã phạm tội rồi mà thôi.

Quá trình nghiên cứu tìm hiểu luận bàn vận động bãi bỏ hình phạt tử hình nhiều năm qua tôi đọc được nhiều thông tin cho rằng đã có những nghiên cứu trên thế giới chỉ ra cho thấy hình phạt tử hình không có tác dụng răn đe ngăn chặn hành vi phạm tội.

Đơn cử như năm 2023 nước láng giềng gần gũi là Malaysia đã thông qua luật bãi bỏ hình phạt tử hình bắt buộc, họ cho rằng “án tử hình đã không mang lại kết quả mà nó dự định mang lại”.

Hoặc ví như ngay ở Việt Nam lâu nay dù có hình phạt tử hình nhưng các hành vi phạm tội nói chung và phạm tội giết người nói riêng vẫn xảy ra với mức độ như nào thì mọi người cũng đã biết.

Một bằng chứng khác cho thấy án tử hình không có tác dụng răn đe ngăn chặn hành vi phạm phạm tội đó là đối với những trường hợp mua bán ma túy khối lượng lớn lâu nay, mặc dù biết là sẽ bị án tử hình nhưng họ vẫn thực hiện.

Bằng chứng thực tế qua hàng nghìn, vài nghìn người bị kết án tử hình về các tội ma túy trong những năm qua, trong đó bao gồm cả đàn ông đàn bà, người già người trẻ, người ở vùng núi và người sống ngay ở trung tâm thành phố lớn.

Với cơ sở dữ liệu bằng chứng đủ lớn đó đều cho thấy điểm chung là mặc dù có nhiều thời gian để suy nghĩ cân nhắc trước khi thực hiện và mặc dù biết rằng nếu bị bắt sẽ bị kết án tử hình nhưng họ vẫn phạm tội.

Thì đó là cơ sở dữ liệu đủ lớn về tâm lý nhận thức hành vi con người để cho thấy hình phạt tử hình không có tác dụng răn đe ngăn chặn hành vi phạm tội.

Quyền được sống

Trong khi luận bàn về án tử hình tôi nhận thấy phần lớn mọi người dù có quan tâm nhưng không cảm thấy có sự liên quan.

Sự thật là phần lớn mọi người sẽ không bao giờ trở thành tử tội hoặc thân nhân của họ.

Nhưng dẫu vậy nhiều người đã không nhận thấy án rằng tử hình sẽ không chỉ dừng lại trong phạm vi pháp luật hình sự.

Quyền được sống của con người là một mục tiêu giá trị pháp lý bao trùm mà nếu đạt được trong lĩnh vực hình sự thì cũng sẽ được lan tỏa sang các lĩnh vực khác của quản lý nhà nước.

Khi quyền sống của con người được chú trọng đề cao thì tính mạng an toàn của công dân sẽ là điều được nâng cao chú ý bảo vệ.

Khi đó có thể hình dung những ổ voi ổ gà trên đường sẽ sớm được sửa chữa lấp đầy, những cung đường tối trời sẽ sớm được lắp thêm ánh đèn.

Những ngọn đồi nứt vỡ do mưa lũ sẽ sớm được lắp đặt các thiết bị cảnh báo sớm để di dời dân cư. Những hồ đập thủy điện sẽ được nghiên cứu đánh giá kỹ lưỡng hơn khi xây dựng để bảo vệ tính mạng người dân ở cuối nguồn.

Với tất cả những sự lan toả đó có thể tin rằng sức khỏe tính mạng của người dân sẽ được đảm bảo tốt hơn, các ban ngành quản lý sẽ điều chỉnh hành vi khi đứng trước những tiến bộ nhận thức của công chúng về quyền được sống.

Nhưng đó là lý thuyết và thực tế mới chỉ đạt được một phần, đời sống an toàn của mọi người sẽ đạt được mức nào phụ thuộc vào những bước tiến bộ pháp lý.

Có một điều chắc chắn là khi trình độ hiểu biết pháp lý của mọi người càng tăng lên thì sự an toàn của mọi người cũng sẽ được đảm bảo tăng lên tương ứng.

Luật sư Ngô Ngọc Trai