Hôm 26 tháng 3 báo Tuổi Trẻ có bài ‘Thượng viện Mỹ thông qua gói cứu trợ kinh tế 2000 tỷ USD’.
Bài báo cho biết dự luật cứu trợ được Thượng viện Mỹ thông qua sau nhiều ngày tranh cãi giữa hai đảng Cộng hòa và Dân chủ.
Dự luật sau đó sẽ được chuyển tới Hạ viện để xem xét phê chuẩn và có chữ ký của tổng thống mới chính thức có hiệu lực.
Bài báo còn cho biết, khoản tiền 2000 tỷ USD sẽ được chia nhỏ thành các khoản chi tiền mặt cho người dân, chi cho các bệnh viện, thiết lập nguồn vốn vay ưu đãi cho doanh nghiệp lớn và một khoản khác cho doanh nghiệp nhỏ.
Cũng báo Tuổi trẻ, hôm mùng 1 tháng 4 có bài đưa tin về phiên họp thường kỳ của Chính phủ Việt Nam họp bàn về dự thảo Nghị quyết hỗ trợ người dân gặp khó khăn bởi dịch Covid-19.
Dự thảo đưa ra gói an sinh xã hội 2,6 tỷ USD với nhiều chính sách hỗ trợ cụ thể cho người nghèo, người lao động bị mất việc làm do ảnh hưởng của dịch Covid-19.
Trình bày dự thảo Nghị quyết, lãnh đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, việc có chính sách đảm bảo an sinh xã hội, hỗ trợ những đối tượng bị tác động là cần thiết trong bối cảnh hiện nay, và đưa ra những nội dung hạng mục hỗ trợ cho từng đối tượng.
Những thông tin nêu trên cũng được các báo truyền tải rộng rãi đến toàn thể người dân.
Nhưng hầu hết công chúng chỉ quan tâm đến số tiền được chi và khoản chi cho những ai được hưởng.
Hầu như không có ai đặt ra câu hỏi vì sao ở Mỹ dự luật cứu trợ lại phải làm như một dự luật, được thông qua bởi cả Thượng viện, Hạ viện và tổng thống, trong khi đó ở Việt Nam chính sách cứu trợ lại chỉ cần một Nghị quyết của Chính phủ là đủ tính hợp pháp.
Rất ít công chúng hiểu được ý nghĩa quy trình về ban hành một chính sách hay tính khoa học hợp lý xung quanh sự vận hành của bộ máy nhà nước.
Thiếu tri kiến
Tôi may mắn hơn nhiều người là trước kia ở trường Đại học Luật Hà Nội tôi đã được học các môn lý luận về nhà nước và pháp luật, lịch sử về nhà nước và pháp luật, về mô hình các nhà nước trên thế giới, về luật hiến pháp, về luật so sánh.
Từ đó, tôi biết được là bên cạnh mô hình nhà nước như được thiết kế ở Việt Nam thì trên thế giới còn có mô hình tổ chức nhà nước kiểu khác.
Đây là điều mà nhiều người không được học ở đại học hoặc học các ngành khác không ý thức được và thường chỉ biết duy nhất về những gì được tổ chức ở Việt Nam.
Sau này ra trường đi làm tôi có thêm thời gian để đọc sách báo, nhất là các sách hồi ký của các nhà lãnh đạo trên thế giới ở Âu Mỹ, các tác phẩm phân tích sự phát triển nền kinh tế các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Malaysia.
Nhờ đó tôi hiểu thêm về mô hình tổ chức các nước, và hiểu ra sự ảnh hưởng của mô hình nhà nước đến mức độ phát triển thịnh vượng của các quốc gia ra sao, ví như qua nghiên cứu tác phẩm ‘Sự thất bại của các quốc gia’.
Thường xuyên xem báo thì thấy, trước mỗi sự vụ phát sinh trong đời sống xã hội, báo chí hay dẫn lời các chuyên gia thỉnh thoảng đưa ra ý kiến phân tích về cách thức tổ chức mô hình nhà nước, viện dẫn ví dụ về chức năng vai trò của thiết chế ở các nước trên thế giới.
Sự quy chiếu về mô hình hệ thống được xem như là nguồn để tìm kiếm các gợi ý giải pháp cho các vấn đề phát sinh ở Việt Nam.
Nhưng đó chỉ là thiểu số tầng lớp chuyên gia ý thức được tính quan trọng của khoa học về tổ chức bộ máy.
Còn đa phần công chúng do thiếu tri thức cho nên thường không có ý kiến.
Lãng phí tài năng
Từ việc quan sát chính quyền và xã hội xử lý dịch cúm lần này tôi chợt nhận ra một điều.
Tôi thấy có một số nhà báo đưa tin tích cực và trách nhiệm cho thấy họ là người có năng lực, phẩm chất đáng trân trọng.
Với quá trình cống hiến cùng với sự hiểu biết xã hội, đúng ra tới một thời điểm họ hoàn toàn xứng đáng với một ghế dân biểu địa phương, đại biểu hội đồng nhân dân của một tỉnh thành nào đấy.
Vậy nhưng đa phần trong số họ sẽ mãi chỉ ở ngoài lề, không được tham dự vào bộ máy điều hành quốc gia.
Đây là tình cảnh chung của nhiều nhân sự có năng lực ngoài xã hội, một sự lãng phí năng lực rất lớn và đối ngược với những gì đã có trong quá khứ.
Nhìn lại lịch sử trước đây thì thấy, nhiều người sau những nỗ lực trong vai trò một nhà báo đã trở thành những nhà lãnh đạo đất nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một ví dụ, một người suốt đời viết báo.
Nhìn sang các nước khác cũng thế, ông Gandhi bên Ấn Độ cũng từng viết báo, Thủ tướng Anh hiện nay Boris Johnson là nhà báo, Tổng thống Trump thì là chủ tịch công ty truyền thông trực tiếp tham gia vào nhiều chương trình truyền hình ăn khách.
Lý do nhiều nhà báo trở thành lãnh đạo quốc gia bởi vì tên tuổi của nhà báo vốn dễ dàng được nhiều người biết đến và đó là điều hết sức quan trọng cho những cuộc ứng cử bầu cử tự do.
Những bài báo hay, chất lượng, sẽ cho thấy năng lực viễn kiến, tầm nhìn của tác giả và ý thức trách nhiệm trước cộng đồng.
Những người như vậy khi được công chúng biết đến sẽ rất thuận lợi trong bầu cử, các đảng phái sẽ chọn ra những gương mặt như vậy để làm ứng viên tiềm năng trong bầu cử.
Nhìn lại cơ chế hiện nay ở Việt Nam thì thấy, việc tuyển chọn nhân sự không khiến cho những người có danh tiếng xã hội có được ưu thế nữa.
Những nghề nghiệp vốn có tính công chúng như luật sư, nhà báo ít còn được ưu thế.
Thay vào đó là rất nhiều nhân viên hành chính các ban ngành, ngồi mòn đít quần ở các văn phòng quan liêu lại được cơ cấu làm dân biểu nghị viện hay lãnh đạo các cơ quan.
Những nhân viên hành chính vốn dĩ làm theo hợp đồng được trả lương lại được cơ cấu vào chỗ ngồi của những người phải đạt được qua bầu cử.
Cách thiết lập bộ máy như vậy đã không phân biệt giữa năng lực chính trị và kỹ năng hành chính chấp pháp.
Trong đó, năng lực chính trị là tầm nhìn lãnh đạo, phẩm chất cá nhân, uy tín xã hội để có thể kêu gọi vận động cộng đồng.
Những điều này liệu còn bao nhiêu giá trị trong việc tuyển chọn người hiện nay?
Cơ chế tuyển chọn nhân sự bất cập khiến gây ra thiệt đơn thiệt kép, người có năng lực thì không được sử dụng, người chẳng thiết tha gì thì lại giữ ghế.
Dẫn đến tình trạng vị trí vốn cần có tiếng nói thì lại không hề cất tiếng trước các vấn đề đất nước.
Qua theo dõi báo chí và mạng xã hội từ khi bắt đầu dịch Covid-19 đến nay, tôi chưa thấy một người nào xưng danh là đại biểu Hội đồng nhân dân một tỉnh thành nào đấy nêu ý kiến chất vấn, hoặc đề xuất gợi ý giải pháp cho các biện pháp phòng dịch.
Biết bao nhiêu ghế dân biểu như vậy đáng ra nên nhường chỗ cho những người xứng đáng.
Để việc tham gia vào bộ máy quốc gia là một sinh hoạt chính trị lành mạnh văn minh, là cuộc thi thố tài năng cống hiến của những người có phẩm hạnh và tri thức, giúp ích cho đất nước phát triển. Thế mà chẳng được. Tiếc thay.
Dịch Covid-19 hiện nay sẽ định hình lại sự phát triển thế giới, định hình lại lộ trình phương hướng phát triển nền kinh tế các nước, trong đó có Việt Nam.
Đây là một thách thức lớn mà muốn vượt qua được để mau chóng phát triển thì một trong những việc cần làm là phải thiết kế lại tổ chức bộ máy nhà nước.
Nếu không thì Việt Nam sẽ mãi loay hoay trong tình trạng một quốc gia chậm phát triển, mắc vào bẫy thu nhập trung bình.
Hoặc vẫn giữ tình trạng như trước đây, mặc dù kinh tế phát triển nhưng thế giới còn phát triển nhanh hơn và Việt Nam ngày càng tụt hậu cách xa so với các nước.
Bài đã đăng trên BBC News Tiếng Việt tại đây: Google search ‘Việt Nam: Công chúng thiếu tri kiến về nhà nước’