TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc |
Quyết định giám đốc thẩm Số : 20/2014/HS-GĐT Ngày : 22/11/2014 |
|
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Với Hội đồng giám đốc thẩm gồm có 7 thành viên tham gia xét xử, do ông Trương Hòa Bình, Chánh án tòa án nhân dân tối cao làm Chủ tọa phiên tòa.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham gia phiên tòa là ông Phạm Văn An, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Thư ký Tòa án ghi biên bản tại phiên tòa là bà Đặng Thu Hà
Ngày 22/11/2014, Tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án hình sự đối với:
Hàn Đức Long sinh năm 1959; trú tại thôn Yên Lý, xã Phúc Sơn, huyện Tân Yên, Tỉnh Bắc Giang; nghề nghiệp: làm ruộng; con ông Hàn Đức Cảnh và bà Giáp Thị Tư ( đều đã chết); có vợ và 02 con ; bị bắt giam từ ngày 19/10/2005.
Người bị hại: Cháu Nguyễn Thị Yến sinh tháng 7/2000 ( đã chết)
Người đại diện hợp pháp của người bị hại: anh Nguyễn Đình Sơn và chị Đoàn Thị Liễu ( là bố, mẹ của cháu Yến); đều trú tại thôn Yên Lý, xã Phúc Sơn, huyện Tân Yên, Bắc Giang.
NHẬN THẤY:
Khoảng 19 giờ ngày 26/6/2005, khi đi làm đồng về vợ chồng anh Nguyễn ĐÌnh Sơn và chị Đoàn Thị Liễu không thấy con gái là Cháu Nguyễn Thị Yến ở nhà, sau khi tìm kiếm nhiều nơi vẫn không thấy nên đã báo chính quyền địa phương để thông báo việc cháu Yến bị mất tích.
Khoảng 7 giờ ngày 27/6/2005, chị Hoàng Thị Hoa đi làm đồng phát hiện thấy xác của cháu Yến dưới lòng máng nước. Đến 14 giờ cùng ngày, Cơ quan điều tra Công an tỉnh Bắc Giang tiến hành khám nghiệm hiện trường, thể hiện: “ xác cháu Nguyễn Thị Yến được phát hiện tại mương nước thuộc đồng sắn, vị trí nằm tại lòng mương có chiều rộng 1,6m có nhiều cỏ và cây khoai lang nước, độ sâu 35cm; từ mặt nước đến chiều cao của mặt mương là 40cm, bờ mương rộng 1,2m có đám cỏ bị dập nát , kích thước 1,2×0,8m, cách xác cháu Yến 20m về phía Đông có 01 chiếc quần lửng trẻ em màu vàng nhạt, hoa văn màu vàng đỏ, tại bờ mương phía bắc có đám đất màu đỏ đã khô kích thước (39 cm x 16cm) có một số long và tóc; bờ mương có vết xây xát mới, kích thước ( 25cm x 0,4 cm), cách 16m về phía Đông là đường đi từ đồng sắn ra đường 297, trên đường có vết màu nâu nghi là máu, kích thước ( 0,3cm x 1,5cm).
Công an tỉnh Bắc Giang đã ra quyết định số 55 ngày 27/6/2005 khởi tố vụ án hình sự “ Hiếp dâm trẻ em” và “ Giết người”.
Tại Bản giám định pháp y số 363/PY ngày 04/07/2005, Tổ chức giám định kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang kết luận: các tổn thương xây xát da, bầm tím trên vùng trán, cổ ở hai bên ven giáp trạng là do ngoại lực tác động; vật tác động nhiều khả năng là do các đầu ngón tay của đối tượng tạo nên. Tổn thương rách màng trinh và một phần da cơ tầng sinh môn phía sau là do ngoại lực tác động; vật tác động nhiều khả năng do dương vật của đối tượng tạo nên. Nạn nhân chết do ngạt nước, treen cơ thể có nhiều tổn thương xây xát, da bầm tím vùng trán, cổ ơ hai bên ven giáp, rách hoàn toàn màng trinh và một phần da cơ tầng sinh môn.
Tại bản kết luận giám định sô 1848+1849/C21 (P6) ngày 15/7/2005, Viện khoa học hình sự, Tổng cục Cảnh sát, Bộ Công an kết luận : “ Không phát hiện thấy xác tinh trùng người trên miếng bông thu dịch âm đạo nạn nhân Nguyễn Thị Yến; trên miếng bông và mảnh xi măng thu tại hiện trường có tinh trùng người, lượng dấu vết ít và chất lượng dấu vết kém nên không thu được gen; có tế bào người, phân tích gen chỉ cho kết quả là máu của một người phụ nữ (XX), các gen khác không cho kết quả. Ba sợi lông thu tại hiện trường đều là lông người, trong đó chỉ có một sợi có gốc, nhưng ít tế bào gốc, nên không phân tích được gen. Trên cọng rơm thu tại hiện trường không có tinh trùng người, nhưng có máu người, phân tích gen (AND) từ bốn sợi tóc dấu vết máu trên cọng rơm và mẫu máu thu trong dịch âm đạo nạn nhân Yến cho thấy: Bốn sợi tóc và máu trên cọng rơm là tóc và máu của nạn nhân Yến”.
Ngày 12/10/2005, chị Nguyễn Thị Chung ( con dâu bà Khuyến) có đơn tố cáo với nội dung: Vào khoảng tháng 2/2005 ( âm lịch) Hàn Đức Long có hành vi hiếp dâm bà Ngô Thị Khuyến sinh năm 1930 ( là mẹ chồng chị). Ngày 13/10/2005, chị Trương Thị Năm ( con gái bà Khuyến) có đơn tố cáo: Vào khoảng tháng 6/2004 và tháng 7/2005 ( âm lịch) hai lần chị bị Long hiếp dâm ( cả hai đơn tố cào này đều do chị Chung viết hộ).
Ngày 19/10/2005, Công an huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang triệu tập Hàn Đức Long để làm rõ việc chị Chung , chị Năm tố cáo; sau đó Long khai nhận đã thực hiện hành vi hiếp dâm bà Khuyến, chị Năm.
Công an tỉnh Bắc Giang đã ra quyết định số 131 ngày19/10/2005 tạm giữ Hàn Đức Long. Tại Quyết định số 169 ngày 20/10/2005, Công an tỉnh Bắc Giang khởi tố Hàn Đức Long về tội “ Hiếp dâm” bà Ngô Thị Khuyến , chị Trương Thị Năm và ra lệnh tạm giam đối với Hàn Đức Long.
Đối với vụ án “ Hiếp dâm trẻ em” và “ Giết người”, ( mà cháu Nguyễn Thị Yến là người bị hại), do hết thời hạn điều tra vẫn chưa xác định được đối tượng gây án nên tại Quyết định số 19/PC14 ngày 27/10/2005, Cơ quan điều tra Công an tỉnh Bắc Giang quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án.
Ngày 29/10/2005, tại trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Giang, Hàn Đức Long viết đơn đầu thú về hành vi hiếp dâm và giết cháu Nguyễn Thị Yến như sau:
Khoảng 16 giờ ngày 26/6/2005, Long chở thóc bằng xe cải tiến đến nhà anh Diêm Quảng Nam đễ xát gạo. Do mất điện nên Long gửi xe tại nhà anh Nam rồi ra đồng cắt dây khoai lang đem về nhà. Khi thấy có điện Long ra chỗ xát gạo thì gặp anh Hàn Đức Lương là cháu của Long đang xát nên Long lấy xe đạp của anh Lương đi về nhà, Khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, Long đạp xe ra chỗ xát gạo lại gặp bố con ông Đỗ Danh Soạn và anh Đỗ Danh Xuân, Long nhường cho ông Soạn, anh Xuân xát trước rồi đi ra đồng gọi con trai là Hàn Đức Trọng về nhà nấu cơm. Sau đó, Long quay lại thì gặp chị Nguyễn Thị Yên đang xát gạo và chị Đặng Thị Sổ lại bảo Long nhường cho xát trước. Long đồng ý và ra ngồi chờ ở càng xe cải tiến. Do điện yếu phải chờ lâu, Long đi sang quán nước của vợ chồng anh Nguyễn Đình Sơn, chị Đoàn Thị Liễu không có ở nhà chỉ có cháu Nguyễn THị Yến sinh năm 2000 ( con anh Sơn và chị Liễu) đang ngồi trước cửa quán. Biết anh Sơn đi nhổ lạc và cháu Yến không biết mình là ai, Long nảy sinh ý định hiếp cháu Yến, Long đi vòng ra phía sau rồi dùng tay phải bịt mồm, tay trái ôm cháu Yến đi ra hướng Cầu Vôi. Đến gần Cầu Vôi, do nghe thấy tiếng động nên Long lội xuống ngòi đi sang Cống Mới, qua đường 297 để đi ra cánh đồng sắn. Khi đến bờ mương cứng giáp ranh giữa thôn Yên Lý và thôn Tiền Sơn, Long đặt cháu Yến lên trên bờ mương rồi tụt quần và dung 3 ngón tay thọc vào âm hộ, sau đó thực hiện hành vi giao cấu với cháu Yến nhưng khi Long đưa dương vật vào sát âm hộ của cháu Yến thì bị xuất tinh lên trên bụng cháu Yến và trên đỉnh bờ mương; rồi Long bế cháu Yến đi ngược bờ mương, vừa đi Long vừa cắn vào môi cháu Yến. Khi đến bờ mương đất, Long đặt cháu Yến tại bờ ruộng của gia đình anh Thái thôn Tiền Sơn. Lúc này cháu Yến không ngồi được nữa, nên Long hất xác cháu Yến xuống mương nước rồi bỏ về nhà. Đến đầu sân bóng của thôn, Long đi tắt về quán sát gạo của anh Nam rồi xuống ao rửa chây tay và vào xát gạo xong Long về nhà tắm rửa ăn cơm tối cùng gia đình.
Ngày 29/10/2005, Long vẽ sơ đồ đoạn đường đi gây án. Cơ quan điều tra đã tổ chức kiểm tra hiện trường theo sơ đồ và lời khai của Long.
Ngày 07/11/2005, Công an tỉnh Bắc Giang ra Quyết định số 11 quyết định phục hồi điều tra vụ án hình sự và Quyết định khởi tố bị can số 180/QĐ-KTBC đối với Hàn Đức Long về tội “ Hiếp dâm trẻ em” và tội “ Giết người”.
Ngày 22/11/2005, Cơ quan điều tra tổ chức thực hiện điều tra. Long thực hiện các động tác bế cháu Yến đưa ra đồng rồi thực hiện hành vi hiếp dâm cháu Yến như đơn đầu thú và lời khai phạm tội của Long.
Tại Bản kết luận điều tra số 28/KL-PC14 ngày 19/01/2006, Công an tỉnh Bắc Giang đề nghị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang truy tố Hàn Đức Long về ba tội “ giết người” theo điểm c, khoản 1, điều 93, tội “ Hiếp dâm trẻ em” theo khoản 4 điều 112 và tội “ Hiếp dâm” theo các điểm d, đ khoản 2 điều 111 của BLHS.
Ngày 24/1/2006, Kiểm sát viên lấy lời khai của Hàn Đức Long thì Long kêu oan không nhận tội.
Tại Cáo trạng số 44/KSĐT ngày 27/2/2006, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang truy tố Hàn Đức Long về ba tội “ Giết người” theo các điểm c,g khoản 1, điều 93; tội “ Hiếp dâm trẻ em” theo khoản 4, điều 112 và tội “ hiếp dâm” theo các điểm d,đ khoản 2 điều 111 của BLHS.
Ngày 26/6/2006, Cơ quan điều tra thực nghiệm điều tra và xác định thời gian xát xong một bao thóc có trọng lượng 40kg hết 17 phút 45 giây. Ngày 13/6/2006, Cơ quan điều tra tổ chức đo độ dài đoạn đường Long đi gây án ( theo sơ đồ Long tự vẽ) thì độ dài đoạn đường cả đi và về dài 1.756,60m; thực nghiệm điều tra thời gian thực hiện các hành vi bắt, bế hiếp, vứt xác vấp ngã và rửa chân tay như Long khia là hết 19 phút 23 giây.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 05/2007/HSST ngày 31/01/2007, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang áp dụng khoản 2 điều 107 Bộ luật tố tụng hình sự; tuyên bố Hàn Đức Long không phạm tội “ hiếp dâm” ( đối với bà Ngô Thị Khuyến và chị Trương Thị Năm).
Áp dụng các điểm c,g, khoản 1 điều 93; khoản 4 điều 112; điều 35; điểm o, khoản 1, điều 48; điểm d khoản 1 điều 50 của Bộ luật hình sự; xử phạt Hàn Đức Long tử hình về tội “ Hiếp dâm trẻ em”; tù chung than về tội “ giết người”, Tổng hợp hình phạt buộc Long phải chấp hành hình phạt chung của hai tội là tử hình.
Ngày 12/2/2007, Hàn Đức Long kháng cáo kêu oan.
Tại kháng nghị phúc thẩm số 01/KNPT ngày 14/02/2007, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang kháng nghị một phần bản án hình sự sơ thẩm số 05/2007/HSST ngày 31/01/2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang đề nghị tuyên bố Hàn Đức Long phạm tội “ hiếp dâm” ( đối với bà Ngô Thị Khuyến và chị Trương Thị Năm) tăng hình phạt đối với Long về tội “ Giết người” lên tử hình.
Tại phiên tòa phúc thẩm Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã rút toàn bộ kháng nghị và đề nghị Hội đồng xét xử hủy bản án hình sự sơ thẩm để điều tra lại.
Tại bản án hình sự phúc thẩm số 504/2007/HSPT ngày 25/6/2007, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội áp dụng điểm a khoản 2 điều 248 Bộ luật tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên các quyết định của bản án hình sự sơ thẩm.
Ngày 27/6/2007, Hàn Đức Long có “ đơn kêu oan” với nội dung : gia đình Long và gia đình bà Ngô Thị Khuyến có xảy ra việc mâu thuẫn từ trước nên chị Năm và bà Khuyến làm đơn vu khống Long hiếp dâm. Tại cơ quan điều tra Long bị các điều tra viên là ông Thu, ông Tùng và ông Biên đe dọa, đánh đập, ép cung bắt Long phải nhận tội, cụ thể: chiều ngày 29/10/2005 Long bị ép ký vào một bản cung không rõ nội dung, sau đó mỗi ngày hỏi cung ba lần ( sáng, chiều, đêm) lá thư Long viết cho vợ và anh Báu ( bác của cháu Yến ) là do Điều tra viên mớm cung và đọc ép buộc Long phải khai nhận.
Tại kháng nghị số 08/2009/HS-TK ngày 3/3/2009, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị Bản án hình sự phúc thẩm số 504/2007/HSPT ngày 25/6/2007 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội, đề nghị Hội đồng THẩm phán tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm Hủy bán án hình sự phúc thẩm nói trên và bản án hình sự sơ thẩm số 05/2007/HSST ngày 31/01/2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang; chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân tối cáo để điều tra lại theo thủ tục chung với yêu cầu làm rõ sáu vấn đề.
Tại Quyết định giám đốc thẩm số 09/2009/HS-GĐT ngày 29/7/2009, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quyết định: Hủy bán án hình sự phúc thẩm số 504/2007/HSPT ngày 25/6/2007 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao và bản án hình sự sơ thẩm số 05/2007/HSST ngày 31/01/2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao để điều tra lại theo thủ tục chung
Kết quả điều tra lại như sau:
– Tại bản kết luận giám định số 183/GĐPY ngày 01/11/2009 Phòng Giám định pháp y tỉnh Bắc Giang kết luận: việc bị can Hàn Đức Long dung bàn tay phải bịt mồm cháu Yến với tư thế, vị trí, động tác nêu trên thì các đầu ngón tay của bị can có thể tạo ra các vết bầm tím hình cung ở vùng giữa trán của nạn nhân.
– Việc Hàn Đức Long dung 3 ngón tay trái thọc vào âm hộ cháu yến có thể gây ra các tổn thương rách màng trinh và tầng sinh môn như trong kết luận của bản giám định pháp y số 363/PY, không phải do dương vật người gây nên.
– Tại bản giám định pháp y tâm thần số 01/2010/GĐPY ngày 28/1/2010, Trung tâm y tế tỉnh Bắc Giang kết luận : trước và sau khi gây án, Hàn Đức Long không bị rối loạn tâm thần. Trong khoảng thời gian diễn ra hành vi gây án, Hàn Đức Long không bị rối loạn tâm thần, còn đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình.
– Tại bản kết luận giám định số 1344/C54 (P6) ngày 11/6/2010, Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận. Tổn thương rách môi bé, tầng sinh môn, tiền đình âm đạo, màng trinh nạn nhân Nguyễn Thị Yến do vật tày có tiết diện lớn hơn lỗ màng trình và âm đạo tác động tạo ra. Dương vật người bình thường ở trạng thái cương cứng gây được các tổn thương này. Một só người trưởng thành dùng 3 ngón tay 2,3,4 thọc vào âm hộ, âm đạo cháu Yến có thể thể gây được các tổn thương khác.
– Tại bản kết luận giám định pháp y bổ sung số 4818/GĐPY ngày 25/11/2010 phòng giám định pháp y tỉnh Bắc Giang kết luận: Tổn thương trà sát da, rỉ máu ở vùng giữa môi trên tử thi Nguyên Thị Yến là do vật cứng tác động gây nên, một người trưởng thành dùng răng cắn vào môi cháu Yến có thể tạo ra vùng tổn thương trên.
- Ngoài ra, ngày 05/01/2011 Ông Hà Văn Quang là Đội phó tham mưu tổng hợp PC45 công an tỉnh Bắc Giang kiểm tra tủ hồ sơ của ông Dương Khương Duy để lại từ năm 2006, ông Duy là phó thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát điều tra. Trưởng phòng cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội, trực tiếp chỉ đạo điều tra vụ án Hàn Đức Long nhưng đã chết, phát hiện có một tập hồ sơ có 49 bút lục gồm:
– 01 bản tự khai ghi tên Hàn Đức Long ngày 27/10/2005 ( 02 BL; 1102, 1103); ký hiệu A3;
– 06 bản ghi lời khai và hỏi cung Hàn Đức Long ( 08 BL: 1094-11021 và 1104-1109) trong đó có 4 Biên bản lien quan đến hành vi phạm tội của Long đối với cháu Yến ( 1098-1101); ký hiệu A4-A9;
– 01 sơ đồ hiện trường tự vệ ( 02 BL: 1110,1111), ký hiệu A1;
– 01 Báo cáo thực nghiệm số 366/BC21 ngày 02/07/2005 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang ( 03 BL: 1115-1117 và 1118);
– 01 thống kê tiền án, tiền sự Hàn Đức Long( ngày bắt Long về tội hiếp dâm BL1118),
– 01 đơn trình báo của tập thể Hội Cựu chiến binh thôn Yên Lý( đơn đánh máy không có ai ký tên , 02 BL: 1134, 1135).
– 04 đơn của chị Nguyễn Thị Chung đề nghị xử lý Long về hành vi Long đánh vợ chồng chị ( 04BL: 1119,1120,1121,1139);
– 10 biên lai viện phí, đơn thuốc.. của chị Nguyễn Thị Chung ( 10 BL: 1123-1133);
– 01 giấy chứng nhận thương tích của chị Nguyễn Thị Chung (BL1140);
– 01 bản tường trình của ông Trương Công Lành ( anh của bà Trương Thị Năm ) ( 02 BL: 1134,1135);
– 01 báo cáo của thôn Yên Lý về việc Hàn Đức Long đánh nhau với ông Trương Công Lành ( 02 BL: 1122,1123);
– 01 biên bản xác định hiện trạng lối đi chung giữa gia đình Long và gia đình ông Lành ( BL1136);
– 01 biên bản giải quyết vụ việc theo thỏa thuận về việc mâu thuẫn giữa Long và chị Nguyễn THị Chung, ông Lành ( 02 BL 1137,1138); ký hiệu A2;
– 01 biên bản giao nhận hồ sơ vụ án gây thương tích giữa công an xã và công an huyện Tân Yên (BL 1141);
– 01 đơn của bà Trương Thị Năm ( đề nghị xử lý Long cưỡng hiếp bà, BL: 1112);
– 01 bản viết tay có nội dung : “ Một số vấn đề cần chú ý” ( không rõ của ai ? BL:1111);
– Tại Kết luận giám định kỹ thuật hình sự số 292/KL- PC54 ngày 08/04/2011, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang kết luận; chữ viết ở các mục hồi, ngày tháng năm tại, tôi – chức vụ; và ông bà- chức vụ; tiến hành hỏi cung bị can họ tên, sinh ngày tháng năm, hộ khẩu thường trú; chữ viết ở mục hỏi và đáp tại biên bản hỏi cung bị can ngày 24/01/2006 ( ký hiêụ A) với chữ viết của ông Nguyễn Thái Tạo trên các tài liệu mẫu so sánh ( ký hiệu M5,M6) là do cùng một người viết ra.
Biên bản hỏi cung bị can đề ngày 24/01/2006 ( ký hiệu A) với chữ viết, chữ ký của Hàn Đức Long trên các tài liệu mẫu so sánh ( ký hiệu M1, M2, M3, M4, M5,M6,M7, M8) là do cùng một người viết, ký ra.
-Tại kết luận giám định số 331/KL-PC54 ngày 19/4/2011 (BL 1147)., Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang kết luận: “ Chữ viết – chữ ký đứng tên Hàn Đức Long trên các tài liệu cần giám định ( ký hiệu từ A1 đến A9) với chữ viết – chữ ký của Hàn Đức Long trên các tài liệu mẫu so sánh (ký hiệu từ M1 đến M10) là do cùng một người viết ra và ký tên.”
(Tài liệu cần giám định, ký hiệu từ A1 đến A9 là : Sơ đồ hiện trường tự vệ; bản tự khai và biên bản hỏi cung bị can)
Tại Cáo trạng số 29/KSĐT ngày 16/6/2007, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang truy tố Hàn Đức Long về 3 tội : “ Giết người” theo điểm c,g khoản 1 điều 93, “ hiếp dâm trẻ em” theo khoản 4 điều 112 và “ Hiếp dâm” theo điểm d,đ khoản 2 Điều 111 Bộ luật hình sự.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 48/2011/HSST ngày 24/09/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang áp dụng khoản 4 điều 112; điểm c,g khoản 1 điều 93; điểm d khoản 1 điều 50; điều 34; điều 35 của Bộ luật hình sự, khoản 4 điều 228 Bộ luật hình sự, xử phạt Hàn Đức Long tử hình về tội “ Hiếp dâm trẻ em”, tù chung thân về tội “ Giết người”. Tổng hợp hình phạt chung cho cả hai tội là tử hình. Hàn Đức Long không phạm tội “ Hiếp dâm”.
Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 706/2011/HSST ngày 29/11/2011, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội Quyết định: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hàn Đức Long, giữ nguyên bản án sơ thẩm, áp dụng khoản 4 điều 112; điểm c,g khoản 1 điều 93; điểm d khoản 1 điều 50 Bộ luật hình sự; xử phạt Hàn Đức Long tử hình về tội “ Hiếp dâm trẻ em”, “ tù chung thân thân về tội “ Giết người”. Tổng hợp hình phạt của hai tội buộc bị cáo Long phải chấp hành hình phạt chung là tử hình.
– Ngày 01/12/2011 Hàn Đức Long có đơn trình Chủ tịch nước và khiếu nại theo thủ tục giám đốc thẩm đều với nội dung kêu oan và cho rằng ; quá trình điều tra Hàn Đức Long bị các điều tra viên ép cung, mớm cung, nhục hình nên Long nhận tội; Bà Ngô Thị Khuyến và chị Trương Thị Năm có mâu thuẫn tranh chấp lối đi với gia đình Long nên đã vu khống Long hiếp dâm.
– Tại công văn số 07/2012/ CV-KN-TTTVPL, ngày 05/06/2012 của Trung tâm tư vấn pháp luật, Liên đoàn Luật sư Việt Nam đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị hủy toàn bộ Bản án phúc thẩm số 706/2012/HSPT ngày 29/11/2012 của Tòa phúc thẩm tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội.
– Tại kháng nghị số 29/2014/KN-HS ngày 09/05/2014 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đối với Bản án hình sự phúc thẩm số 706/2011/HSPT ngày 29/11/2011 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội và Bản án hình sự sơ thẩm số 48/2011/HSST ngày 24/9/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang. Đề nghị Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, hủy bản án hình sự Phúc thẩm và bản án hình sự sơ thẩm nêu trên; chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao để điều tra lại theo thủ tục chung.
–
XÉT THẤY
Đây là vụ án có tính chất đặc biệt nghiêm trọng xảy ra vào tháng 6/2005, Cơ quan điều tra thu thập chứng cứ và tiến hành điều tra nhiều tháng nhưng vẫn không phát hiện được tội phạm. Tháng 10/2005, Cơ quan điều tra ra quyết định tạm đình chỉ vụ án. Ngày 12/10/2005, bà Ngô Thị Khuyến và chị Trương Thị Năm làm đơn tố cáo Hàn Đức Long có hành vi hiếp dâm bà Khuyến và chị Năm, nên Cơ quan điều tra ra quyết định tạm giữ Hàn Đức Long và khởi tố Hàn Đức Long về tội “ Hiếp dâm” và ra lệnh tạm giam. Ngày 29/10/2005, Hàn Đức Long viết đơn tự thú về hành vi hiếp và giết cháu Nguyễn THị Yến. Cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai của các nhân chứng có mặt nơi xát gạo tại gia đình anh Diêm Quảng Nam và kết luận Hàn Đức Long là người thực hiện hành vi hiếp và giết cháu yến vào lúc 18 giờ 30 phút ngày 26/6/2005 tại thôn Yên Lý, xã Phúc Sơn, Huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang. Mặc dù , Hàn Đức Long nhận tội nhưng qua các tài liệu chứng cứ được thu thập có trong hồ sơ vụ án, thấy rằng: thông qua việc truy xét và chỉ dựa trên cơ sở đơn đầu thú và lời khai nhận của Hàn Đức Long được thực hiện hành vi hiếp dâm bà Ngô Thị Khuyến và chị Trương Thị Năm, ngày 22/6/2005, Long lại khai đã thực hiện hành vi hiếp và giết cháu Yến, sau đó tự vẽ sơ đồ đoạn đường đi gây án. Ngày 22/11/2005, Cơ quan điều tra công an tỉnh Bắc Giang đã tổ chức thưc nghiệm điều tra cho người đóng thế Hàn Đức Long thực nghiệm ( hình nộm) là cháu Yến bế đưa ra cánh đồng đồi sắn để thực hiện hành vi hiếp rồi hất xác cháu Yến xuống mương nước. Lời khai nhận của Long đều phù hợp với khám ngiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi cũng như kết luận giám định và kết quả điều tra của cơ quan Công an; nhưng qua 4 lần xét xử tại cấp sơ thẩm và phúc thẩm, tại phiên tòa Hàn Đức Long đều chối tội kêu oan, bản thân Long không thực hiện hành vi hiếp bà Khuyến, chị Năm và hãm hại cháu Yến và cho rằng việc Long nhận tội trước Cơ quan điều tra vì bị giam giữ tại cơ quan Công an tỉnh Bắc Giagn, Long đã bị các điều ra viên bức cung, ép dung, nhục hình, đánh đập và bắt Long phải khai nhận những hành vi phạm tội như đã nêu trên.
Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm và tòa án cấp Phúc thẩm chỉ căn cứ duy nhất vào lời khai nhận tội ban đầu của Hàn Đức Long trước cơ quan điều tra và các tài liệu do Cơ quan điều tra cung cấp; những chứng cứ được thu thập còn mâu thuẫn với chính lời khai nhận của Long, nhiều chứng cư quan trọng của vụ án đều bỏ qua chưa được điều tra xác minh làm rõ. Tòa án các cấp không phân tích đánh giá chứng cứ một cách khách quan, toàn diện nhưng đã kết án Hàn Đức Long về các tội “ Giết người” và “ Hiếp dâm trẻ em” là chưa đủ căn cứ vững chắc.
Mặt khác, tại Quyết định giám đốc thẩm số 09/2009/HS – GĐT ngày 29/7/2009 Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã hủy Bản án hình sự sơ thẩm số 05/2007/HSST ngày 31/01/2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang và bản án hình sự phúc thẩm số 504/2007/HSPT của tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội để điều tra lại theo sáu yêu cầu của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao nhưng vẫn chưa được Cơ quan điều tra làm rõ, đó là:
(1) Phải xác định Hàn Đức Long vắng mặt tại nơi sát gạo của anh Diêm Quảng Nam từ thời điểm nào, thời gian vắng mặt bao nhiêu giờ, lời khai của chị Sổ và chị Yên không đồng nhất, còn nhiều mâu thuẫn về thời gian khi Long vắng mặt tại nơi sát gạo. Cơ quan điều tra đưa chị Sổ, chị Yên với tư cách là người làm chứng không khách quan, những căn cứ này chưa được làm rõ
(2) Việc thực nghiệm điều tra xác định thời gian Long thực hiện hành vi phạm tội là chưa đảm bảo chính xác, như người đóng thế không tương xứng, Long bị dị tật nhưng người lại là người khỏe mạnh bình thường, 3 lần thực nghiệm hiện trường xác định thời gian đều khác nhau; (hình nộm), kích thước và trọng lượng không tương xứng với cháu Yến và là vật bất động còn cháu Yến khi bị hãm hại phải có động tác cử động, nên cần thực nghiệm để điều tra lại.
(3) Cần điều tra và kết luận về dấu vết trên tử thi Cháu Yến: Vùng giữa trán có một số vết bầm tím hình cung
(4) Cần có giải thích chính thức về động tác của hành vi làm “ tổn thương” rách màn trinh và một số phần da cơ tầng sinh môn phía sau “ của cháu Yến.
(5) Cần làm rõ quãng đường từ nơi xát gạo đến nơi thực hiện tội phạm có phải lội nước không? Nếu có lội nước thì có đội dài bao nhiêu, nước sâu bao nhiêu, quần áo có bị ướt không? Nếu bị ướt thì độ ướt và thời gian khô, có ai thấy Long khi về nơi xát gạo không, quần áo của Long lúc đó như thế nào chưa được làm rõ.
(6) Cần tổ chức giám định tâm thần đối với Long.
Việc cơ quan điều tra cho ông Báu là bác ruột của cháu Yến không phải là tội phạm nhưng lại vào buồng giam cùng Long sau đó dụ dỗ, thuyết phục , động viên Long nhận tội là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và nội quy và quy chế của trại giam. Trong quá trình điều tra, điều tra viên bỏ ra ngoài hồ sơ gồm 49 bút lục trong đó có bản cung của Long ghi ngày 27/10/2005 nhưng cũng chính ngày đó Cơ quan điều tra lại tạm đình chỉ điều tra vụ án. Nhiều tài liệu chứng cứ quan trọng Điều tra viên bỏ ra ngoài hồ sơ, đây chính là dấu hiệu của việc làm sai lệch hồ sơ vụ án chưa được xem xét làm rõ, đồng thời khi Kiểm sát viên lấy lời khai đối với Long thì Long khai “ người giết hại cháu Yến chính là người có tên là Giang”, đây là nguồn chứng cứ quan trọng nhưng Cơ quan điều tra bỏ qua không xác minh điều tra ai là người có tên “ Giang” nên cần phải xác minh điều tra làm rõ thì mới đánh giá chứng cứ đúng đắn về việc Long có hành vi thực hiện tội phạm hay không. Do đó, chưa có đầy đủ căn cứ vững chắc để xác định chính xác thời gian Hàn Đức Long thực hiện hành vi phạm tội và phạm tội như thế nào. Đây là một trong những căn cứ rất quan trọng để đánh giá chứng cứ và giải quyết vụ án.
Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 điều 285; điều 287 và điều 289 Bộ luật tố tụng hình sự.
QUYẾT ĐỊNH
Hủy bán án hình sự phúc tẩm số 706/20011/HSPT ngày 29/11/2011 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội và bản án hình sự sơ thẩm số 48/2011/HSST ngày 24/09/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang; chuyển Hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao để điều tra lại theo thủ tục chung.
Tiếp tục tạm giam Hàn Đức Long cho đến khi Viện kiểm sát nhân dân tối cao thụ lý lại hồ sơ vụ án.
Nơi nhận -VKSNDTC ( 02 bản, kèm hồ sơ vụ án); – Tòa phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội; – TAND tỉnh Bắc Giang; – VKSND tỉnh Bắc Giang; – Cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Bắc Giang; – Trại tạm giam thuộc Công an tỉnh Bắc Giang; – Anh Nguyễn Đình Sơn và chị Đoàn Thị Liễu |
TM. HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN CHÁNH ÁN |
|
|