Đã có giải pháp cho nhiều án oan

Bộ luật tố tụng hình sự mới đã hoàn thiện hơn về quy trình thủ tục xét xử được kỳ vọng sẽ giúp giảm tránh án oan.

Một trong số nhiều điểm mới đáng chú ý có nội dung quy định tại Điều 13 rằng khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội theo trình tự, thủ tục luật định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội.

Quy định mới này mở ra hy vọng lối thoát cho những vụ án kêu oan lâu nay.

Theo nội dung trên, việc ‘không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội’ tức là vụ án còn tồn tại những điểm mù mờ không rõ ràng dẫn đến nghi ngờ thì khi đó phải kết luận người bị buộc tội không có tội.

Nội dung này về bản chất là sự tiếp thu triển khai nguyên tắc pháp lý ‘nghi ngờ hợp lý’, một nguyên tắc khoa học tiến bộ đã được nhiều nước trên thế giới áp dụng.

Nội dung căn bản của nguyên tắc này là chỉ được kết luận có tội khi vụ án không còn điểm nghi ngờ hợp lý nào nữa, ngược lại khi còn tồn tại một điểm nghi ngờ hợp lý chưa được làm rõ thì không được kết luận có tội.

Nguyên tắc này là một đảm bảo phòng ngừa rất tốt phòng tránh oan sai, vì nó đặt ra yêu cầu cao về cơ sở kết tội.

Trước đây luật tố tụng hình sự Việt Nam chưa tiếp thu triển khai, thế rồi như một hệ quả tất yếu, thực tiễn xét xử đã xảy ra nhiều vụ án kêu oan như Hàn Đức Long, Lê Bá Mai, Nguyễn Văn Chưởng, Hồ Duy Hải, Lê Văn Mạnh … với mức án lên đến tử hình.

Có một điểm chung trong các vụ án này là đều tồn tại một hoặc nhiều căn cứ kết tội chưa được làm rõ, tức là tồn tại những điểm mâu thuẫn vô lý, song lâu nay các cơ quan tiến hành tố tụng thường cho rằng căn cứ vào các tài liệu bằng chứng khác có trong hồ sơ thì vẫn có đủ cơ sở để kết tội.

Kiểu phán xét định án như vậy đã gây ra những vụ án kêu oan kéo dài vì phía bị cáo và luật sư bào chữa căn cứ vào những điểm mâu thuẫn vô lý chưa được làm rõ có trong hồ sơ để đeo đuổi việc kêu oan.

Các cơ quan tố tụng thì một mặt bị lúng túng, họ không thể làm gì khác ngoài việc kết tội vì hồ sơ đã có những chứng cứ kết tội. Mặt khác về mặt cơ sở pháp lý họ khó có thể bác bỏ tính hợp lý trong việc kêu oan.

Từ đó khiến cho các vụ án lâm vào tình trạng dằng dai kéo dài, mà vì hành lang pháp lý không có lối ra cho nên mặc dù đã điều tra đi điều tra lại nhiều lần những điểm mù mờ vẫn không được làm rõ, tòa án không thể tuyên vô tội và vụ án đã không thể khép lại.

Vụ án Hàn Đức Long

thoi-chan-long

Để thấy rõ hơn về giá trị ý nghĩa của nguyên tắc ‘nghi ngờ hợp lý’ hãy tham khảo vụ án Hàn Đức Long.

Năm 2005 ở huyện Tân Yên thuộc tỉnh Bắc Giang xảy ra vụ án một cháu bé 5 tuổi bị hiếp rồi giết vứt xác ở cánh đồng.

Chập tối hôm đó một cặp vợ chồng đi làm đồng về muộn không thấy con gái đâu mới đổ xô đi tìm. Sáng hôm sau người đi làm đồng sớm phát hiện xác cháu bé tại mương nước cánh đồng, khám nghiệm tử thi cho thấy cháu bị hiếp rồi giết chết.

Cơ quan điều tra xác định thời điểm chết của cháu, căn cứ vào lượng thức ăn đã nhuyễn còn trong dạ dày họ giám định kết luận cháu bé chết sau bữa ăn cuối cùng từ 4 đến 6 tiếng. Hỏi cha mẹ cháu bé thì được biết cháu ăn bữa cuối cùng lúc 12 giờ trưa cùng ngày.

Từ điểm ấy suy ra cháu bé chết trong khoảng thời gian từ 4 đến 6 giờ chiều.

Nhưng ngày xảy ra vụ án là ngày 26/6/2005 là một ngày mùa hè nóng nực, khoảng thời gian từ 4 đến 6 giờ chiều trời còn sáng rõ. Cánh đồng khi đó ruộng vừa mới cấy không gian thông thoáng, trời còn sáng nhiều người còn ở ngoài đồng, ngay như bố mẹ cháu bé cũng đi làm đồng đến tối muộn mới về.

Vậy liệu tội phạm có dám gây án trong khoảng thời gian đó không, liệu có kẻ nào dám bắt bế cháu bé ra giữa cánh đồng thanh thiên bạch nhật để hiếp rồi giết không?

Đây là điểm vô lý trong căn cứ kết tội mà nhiều năm qua mặc dù đã điều tra lại nhiều lần vẫn không được lý giải làm rõ.

Hồ sơ vụ án cũng mô tả thủ phạm Hàn Đức Long sau khi hiếp đã bế cháu bé ra đoạn bờ mương đất đặt cháu ngồi trên bờ, khi thấy cháu không cử động gì thì đẩy cháu ngã xuống mương nước rồi bỏ chạy về.

Như thế kết quả điều tra xác định cháu bé chết do đuối nước.

Nhưng khi cơ quan điều tra khám nghiệm hiện trường thì thấy lòng mương có nhiều cỏ và khoai nước, độ sâu 35cm. Trong khi đó cháu bé năm tuổi có chiều cao 1,07m. Với mực nước mương chỉ hơn một gang tay thì khó có thể làm chết đuối cháu bé có chiều cao thế được, chỉ cần cháu ngồi là đã cao hơn mực nước.

Khi mổ tử thi thì thấy trong phổi và phế quản cháu bé có dị vật lẫn bùn đất, điều này chứng tỏ cháu đã hít thở mạnh khi ở dưới nước và vẫn còn khỏe, vì phải hít thở mạnh thì dị vật lẫn bùn đất mới chui được vào trong phổi và phế quản. Như vậy khả năng là cháu đã bị dìm cho chết sặc chứ không phải do bị đẩy ngã đuối nước.

Do vậy kết quả điều tra cho rằng thủ phạm Hàn Đức Long đẩy cháu bé ngã đuối nước khiến cháu chết không phù hợp với kết quả khám nghiệm tử thi và kết quả khám nghiệm mực nước ở hiện trường.

Vụ án Hàn Đức Long cũng như nhiều vụ án kêu oan khác đều tồn tại những điểm nghi ngờ hợp lý không được làm rõ.

Do luật tố tụng cũ chưa tiếp thu triển khai nguyên tắc nghi ngờ hợp lý nên án vẫn được tuyên, nhưng từ trong sâu thẳm nội tâm con người thẩm phán đã do dự hồ nghi về cơ sở kết tội, và với hành lang pháp lý trong hiện tại họ chỉ có thể làm được việc là hủy án yêu cầu điều tra lại.

Điều này khiến cho các vụ án kêu oan đều ở trong tình trạng giải quyết kéo dài.

Nay Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã tiếp thu nguyên tắc nghi ngờ hợp lý, mặc dù nội dung câu chữ tuy không mấy rõ ràng song cũng có thể áp dụng được, đã mới mở ra cơ hội lối thoát cho các vụ án kêu oan.

Nó sẽ chấm dứt quá trình tranh cãi bất tận giữa các quan điểm buộc tội và gỡ tội. Nó tạo ra sự thắng thế hoàn toàn cho một phía, cái phía mà lâu nay hay ở thế yếu. Theo đó khi còn tồn tại một điểm chưa được làm rõ trong căn cứ kết tội thì phải kết luận không có tội.