Bản kết luận điều tra lại năm 2010

CÔNG AN TỈNH BẮC GIANG

CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA

Số: 73/PC45

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lâp – Tự do – Hạnh phúc

Bắc Giang, ngày 30 tháng 8 năm 2010

 

BẢN KẾT LUẬN ĐIỀU TRA VỤ ÁN

Vụ: Hàn Đức Long, can tội “Hiếp dâm trẻ em, giết người, hiếp dâm”

 

  1. I.CĂN CỨ ĐỂ ĐIỀU TRA LẠI VỤ ÁN

Căn cứ Quyết định Giám đốc thẩm số 09 ngày 29/07/2009 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao về việc hủy bản án hình sự phúc thẩm số 504/2007/HSPT ngày 25/6/2007 cảu Tòa phúc thẩm TAND tối ao và bản án hình sự sơ thẩm số 05/2007/HSST ngày 31/1/2007 của TAND tỉnh Bắc Giang để điều tra lại theo thủ tục chung đối với vụ án: Hàn Đức Long – sinh năm 1959, can tội: “Hiếp dâm trẻ em, giết người, hiếp dâm”.

Việc điều tra được tiến hành từ ngày 7/9/2007, đến nay đã kết thúc. Kết quả như sau:

  1. II.NỘI DUNG VỤ ÁN VÀ KẾT QUẢ ĐIỀU TRA LẠI:

Khoảng 19 giờ, ngày 26/6/2005, anh Nguyễn Đình Sơn và vợ là chị Đoàn Thị Liễu, đi làm đồng về thấy con gái là cháu Nguyễn Thị Yến, sinh năm 2000 không có nhà, đã đi tìm kiếm ở nhiều nơi nhưng không thấy, sau đó vợ chồng anh Sơn có báo với chính quyền địa phương để thông báo cháu Yến mất tích.

Đến sáng ngày 27/6/2005, xác cháu Yến được phát hiện ở mương nước trên cánh đồng Đồi sắn thuộc thôn Tiền SƠn, xã Phúc Sơn, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang (do chị Hoàng Thị Hoa, sinh năm 1969 ở thôn Tiền Sơn, xã Phúc Yên, Tân Yên đi làm đồng về phát hiện thấy). Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bắc Giang sau khi nhận được tin báo đã tiến hành khám nghiệm hiện trường và khám nghiệm tử thi.

Kết quả khám nghiệm hiện trường:

Hiện trường nơi phát hiện xác nạn nhân Nguyễn Thị Yến: Tai mương nước trên cánh đồng Đồi sắn giáp ảnh giữa thôn Tiền Sơn và thôn Yên Lý xã Phúc Sơn, huyện Tân Yên.

                     Phía Bắc cách 300 mét là Đường 297.

                     Phía Nam cách 100 mét là nghĩa địa của thôn Tiền Sơn và Yên Lý.

                     Phía Đông cách 60 mét là đường liên thôn từ thôn Yên Lý đi thôn Tiền Sơn.

                     Phía Tây cách 20 mét là đường đi từ đường 297 vào nghĩa địa của thôn Tiền Sơn và Yên Lý.

Xem xét mương nước tại vị trí phát hiện xác nạn nhân Yến thấy: Lòng mương rộng 1,60 mét có nhiều cỏ và khoai nước, nước chảy từ Đông sang Tây, sâu 35 cm, từ mặt nước mương tới bờ mương là 40 cm. Hai bên bờ bằng đất rộng trung bình 1,2 mét. Trên lòng mương tại vị trí phát hiện xác nạn nhân có một đám cỏ dập nát kích thước (12×0.8)m.

Trên mương nước tại vị trí cách nơi phát hiện xác nạn nhân Yến 20 mét về phía Đông phát hiện một quần lửng trẻ em màu vàng nhạt, có hoa văn màu vàng và màu đỏ.

Mở rộng hiện trường 160 mét về phía Đông từ vị trí phát hiện chiếc quần lửng (theo hướng thôn Trám xã Phúc Sơn) thấy: Tại vị trí lòng mương rộng 60 cm, nước sâu 36 cm, bờ mương xây gạch chát xi măng rộng 25 cm, từ mặt nước lên bờ mương là 20 cm, trên bờ mương phía Bắc có đám cỏ màu đỏ nghi máu đã khô, kích thước (39×16)cm trong đám chất màu đỏ này có một số lông tóc. Tại vị trí này, bờ mương có vết xây sát vôi vữa còn mới, kích thước (25×4)cm. Từ vị trí này về phía Đông 16 mét là đường đi từ cánh đồng Đồi sắn ra đường 297 có vết màu nâu nghi máu, kích thước (3×1,50cm. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã thu giữ chất màu nâu nghi máu, dấu vết lông, tóc trên bờ mương phía Bắc cách vị trí phát hiện chiếc quần lửng 160 mét và dịch thu ở âm đạo cháu Yến để trưng cầu giám định. Ngày 15/7/2005 Viện khoa học hình sự Bộ công an đã có Kết luận giám định số 1848 và 1849/C21 (P6) xác định:

                     Không phát hiện thấy xác tinh trùng người trên miếng bông thu dịch âm đạo nạn nhân Nguyễn Thi Yến.

                     Trên các miếng bông và mảnh xi măng thu tại hiện trường có tinh trùng người, vì dấu vết ít và chất lượng dấu vết kém nên không thu giữ được gen; có tế bào người, phân tích gen chỉ cho kết quả máu một người phụ nữ (XX), các gen khác không có kết quả.

                     03 sợi lông thu tại hiện trường đều là lông người, trong đó chỉ có một sợi có gốc, nhưng ít tế bào gốc nên không phân tích được gen. 04 sợi nghi tóc thu tại hiện trường không có tinh trùng người, có máu người. Phân tích gen (AND) từ 04 sợi tóc, dấu vết máu trên sợi rơm và mẫu máu thu tại dịch âm đạo nạn nhân Yến cho thấy: 04 sợi tóc và máu trên cọng rơm là tóc và máu của nạn nhận Yến.

 

Kết quả khám nghiệm tử thi:

*Khám ngoài: Tử thi cao 1,07 mét, cơ thể phát triển bình thường, quần áo đã được gia đình thay thế. Cởi bỏ quần áo khám thấy:

– Tóc đen dài ngang cổ bám dính lá cỏ màu xanh, hai mắt nhắm kín, hai lỗ mũi bám dính dịch màu nâu xanh, miệng ngậm, răng không gẫy, hai lỗ tai khô.

– Vùng trán my trên mắt phải, có vết xây xát trợt da, kích thước (1×0,5)cm.

– Vùng giữa trán có một số vết bầm tím hình cung, vết lớn nhất có dây cung dài 1cm, tổng kích thước (9×8)cm.

– Vùng giữa môi trên có tổn thương trà sát da rỉ máu, không rõ hình, nền đỏ ướt, kích thước (1,5×1)cm.

– Vùng cổ phía trước vị trí hai bên sụn giáp trạng, có nhiều tổn thương xây xát da và xước da hình cung, tổng kích thước (7,5×2)cm.

– Vùng giữa ngực ở vị trí trên xương ức và sát hàm ức cách đầu vú phải 8cm có đám tổn thương bầm tím không rõ hình, kích thước (5×4)cm.

– Mặt sau bả vai cách đỉnh trán vai 5cm, cách cột sống lưng 10cm có tổn thương xây xát da không rõ hình, kích thước (1,5×0,8)cm, vùng thắt lưng cùng hơi lệch về phía bên phải có một số tổn thương xây xát da, hướng từ trên xuống dưới, tổng kích thước (10×5,9)cm, da lòng bàn tay, bàn chân và các ngón nhăn nheo, nhợt nhạt rõ.

– Màng trinh rách mới hoàn toàn và rách toạc, rộng thêm một phần da tầng sinh môn về phía sau, trong âm đạo có chất dịch màu đỏ.

– Ngoài ra không phát hiện tổn thương gì khác.

*Khám trong:

– Giải phẫu ngực bụng thấy:

+ Cơ tim xung huyết, thượng tâm mạc rõ, các lá van tim bình thường.

+ Lòng khí phế quản xung huyết, các tiểu phế quản có dị vật lẫn bùn đất màu nâu đen.

+Dạ dày chứa ít thức ăn đã nhuyễn.

                     Giải phẫu vùng cổ hai bên sụn giáp thấy:

+ Tổ chức cơ dưới đám tổn thương xây xát da bị bầm dập tím tụ máu.

Tại Bản kết luận giám định pháp y số 363 ngày 4/7/2005 của Tổ chức giám định kĩ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang xác định: Các tổn thương xây xát da bầm tím trên vùng trán, cổ và hai bên sựn giáp trạng là do ngoại lực tác động. Vật tác động nhiều khả năng là các ngón tay của đối tượng tạo nên. Tổn thương rách màng trinh và một phần da, cơ tầng sinh môn phía sau là do ngoại lực tác động lên, vật tác động nhiều khả năng là do dương vật của đối tượng tạo nên. Nạn nhân chết do ngạt nước.

Căn cứ vào kết quả khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi và tài liệu điều tra xác minh thấy có dấu hiệu của vụ án hình sự, ngày 27/6/2005 Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bắc Giang đã ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự: “Giết người và Hiếp dâm trẻ em” theo Điều 93, Điều 112 Bộ luật hình sự để tiến hành điều tra.

Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra nhận được đơn tố giác của chị Nguyễn Thị Chung, sinh năm 1969, trú tại thôn Yên Lý, xã Phúc Sơn, huyện Tân Yên về việc Hàn Đức Long hiếp dâm bà Ngô Thị Khuyến, sinh năm 1930 (là mẹ chồng chị Chung) tại nhà Long trong tháng 1/2005 (Âm lịch); và đơn của chị Trương Thị Năm, sinh năm 1960, trú tại thôn Yên Lý, xã Phúc Sơn, huyện Tân Yên (là con gái của bà Khuyến) tố giác bị Hàn Đức Long hiếp dâm 02 lần: 01 lần tại nhà chị Năm vào cuối tháng 6 đầu tháng 7 năm 2004 (âm lịch) và 01 lần tại nhà Hàn Đức Long trong tháng 7/2005 (âm lịch). Ngày 19/10/2005, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bắc Giang phối hợp với Công an huyện Tân Yên triệu tập Hàn Đức Long đến Công an huyện Tân Yên để làm rõ nội dung tố giác của chị Chung và chị Năm. Tại Công an huyện Tân Yên, Hàn Đức Long đã thừa nhận toàn bộ hành vi hiếp dâm bà Khuyến, chị Năm như các bị hại đã trình bà, cụ thể như sau:

                     Khoảng 14 giờ ngày 04/3/2004 (tức ngày 24/1/2005 âm lịch) bà Khuyến sang nhà Long chơi, bà vừa bước vào nhà thì bị Long ôm vật xuống để hiếp nhưng bà Khuyến chống cự và đe dọa “mày không buông tao ra, tao kêu con tao sang nó giết mày” nên Long sợ phải buông và Khuyến ra và xin bà tha thứ. Lần này, Long chưa cưỡng hiếp được bà Khuyến.

                     Vào khoảng 21 giờ một ngày cuối tháng 6 đầu tháng 7/2004, Hàn Đức Long sang nhà chị Năm (cách nhà Long khoảng 20 mét), thấy chị Năm và con trai đang ở nhà, Long bảo con trai chị Năm đi sang nhà Long xem Ti vi đang có chương trình hay. Nghe vậy, con chị Năm đã đi khỏi nhà. Khi chỉ còn một mình chị Năm ở nhà thì Long gạ gẫm đòi chị Năm cho quan hệ tình dục nhưng chị Năm không đồng ý và bỏ chạy ra sân, Long đã đuổi theo túm tay chị Năm và dùng vũ lực ép chị Năm đứng dựa vào tường để giao cấu trái ý muốn và y đã thực hiện xong hành vi này.

                     Vào khoảng 10 giờ sáng một ngày đầu tháng 7/2005, chị Năm sang nhà Long trả cuốc chị mượn từ sáng. Lúc này, Long đang ở nhà một mình, thấy có cơ hội thuận lợi nên Long nhờ chị Năm khiêng hộ bao thóc khoảng 40 kg vào trong buồng. Khi xếp bao thóc xong, Long nói “cho tao một cái” rồi xông vào ôm, tụt quần chị Năm và hiếp chị Năm trong tư thế đứng. Y thực hiện khoảng 3 phút thì xong. Sau đó, Long đi ra ngoài, lấy gối vứt xuống chiếc chiếu trải dưới nền buồng và ra cầm tay chị Năm kéo nằm xuống để giao cấu tiếp, do chị Năm chống cự nên Y không thực hiện được.

Ngay sau khi sự việc xảy ra, chị Năm không tố cáo Long vì xấu hổ và nghĩ đến tình làng nghĩa xóm. Đến ngày 13/10/2005, thì chị Năm mới viết đơn tố cáo Long vì biết Long còn thực hiện hành vi hiếp dâm đối với mẹ mình là bà Khuyến.

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ thu thập được và đơn xin đầu thú về hành vi hiếp dâm bà Khuyến, chị Năm của Hàn Đức Long. Ngày 20/10/2005, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bắc Giang đã ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can và ra lệnh tạm giam đối với Hàn Đức Long về tội: “Hiếp dâm” theo Điều 111 Bộ luật hình sự để điều tra theo quy định của pháp luật. Tiếp đến ngày 29/10/2005, Hàn Đức Long viết đơn xin đầu thú về hành vi hiếp dâm và giết cháu Yến, nội dung sự việc như sau:

Khoảng 16 giờ ngày 26/6/2005, Long chở khoảng 40kg thóc và 10kg ngô bằng xe cải tiến đến nhà anh Diêm Quảng Nam ở cùng thôn để sát thóc và nghiền ngô. Do mất điện nên anh Long gửi xe tại nhà anh Nam và đi ra ruộng ở cánh đồng cửa đình đầu làng thôn Yên Lý để cắt dây khoai lang, lúc này có vợ chồng anh Sơn, chị Liễu đang nhổ lạc ở gẩn ruộng nhà Long. Cắt dây khoai lang xong thì Long đem về nhà băm, đang băm thấy có điện nên Long đi ra chỗ sát gạo. Khi đến nơi thấy anh Hàn Đức Lương đang sát gạo, vì chưa đến lượt nên Long lấy xe đạp của anh Lương đi về nhà. Đến khoảng 18 giờ 30 phút Long đạp xe ra chỗ sát gạo thì gặp bố con ông Đỗ Danh Soạn và Đỗ Danh Xuân, nhưng Long đã nhường cho ông Soạn và Xuân sát trước để ra đồng gọi con là Hàn Đức Trọng về nầu cơm. Sau đó Long quay lại chỗ sát gạo, anh Xuân vừa sát thóc xong, Long định bê thóc lên sát thì chị Nguyễn Thị Yên đèo thóc đến và bê thóc thẳng vào máy sát tranh trước. Cùng lúc đó, chị Đặng Thị Sổ cũng bảo Long nhường cho sát gạo trước, Long đồng ý và ra ngoài ngồi ở càng xe cải tiến cạnh bờ ao trước quán sát gạo.

Do chưa đến lượt mình sát gạo nên Long đi bộ sang quán bán hàng của anh Sơn, chị Liễu thì gặp cháu Nguyễn Thị Yến, sinh tháng 7/2000 (con của anh Sơn, chị Liễu) đang ngồi trước sân quán. Long hỏi cháu Yến và biết bố mẹ cháu không có nhà, cháu Yến cũng không biết Long là ai, lúc này trời đã nhá nhem tối, không có người xung quanh, Long này sinh ý định bắt chúa Yến đưa ra đồng hãm hại và thủ tiêu. Long đi vòng ra sau lưng cháu Yến, cháu Yến ngoảnh cổ nhìn theo, Long dùng tay phải bịt mồm, tay trái ôm ngang người áp lưng cháu Yến vào bụng Long và đi như chạy qua bụi tre cạnh sân bóng theo đường bê tông hướng ra cầu Vôi. Trong lúc ôm cháu Yến như vậy thì cháu Yến cựa mạnh và kêu i..i… Khi đến cầu Vôi, Long nghe cách phía trước có tiếng loạch xoạch như tiếng người đi xe đạp nên Long không dám đi trên mặt đường mà lội xuống ngòi đi sang cống Mới. Khi gần đến đường Long quan sát thấy không có người nên Long ôm cháu Yến chạy qua đường 297 theo bờ to ra cánh đồng sắn. Khi cách mương cứng (là nơi giáp ranh giữa cánh đồng của thôn Yên Lý và Tiền Sơn) khoảng 15 mét, Long dùng tay xoa âm hộ của cháu Yến để tự kích dục. Long ôm cháu Yến đi theo bờ phải của mương nước ngược dòng mương nước về phía thôn Trám khoảng 150 mét rồi đặt cháu Yến ngồi trên bờ mương bên trái, hai chân thõng xuống lòng mương. Long ngồi ở bờ mương đối diện, hai chân đặt dưới lòng mương, tay phải giữ vai cháu Yến, tay trái tụt quần cháu Yến và ném xuôi theo dòng nước, không rõ quần rơi xuống mương hay vào ruộng. Long dùng 3 ngón tay lách vào âm hộ của cháu Yến, thấy mát mát tay và có cảm giác như có máu chảy ở âm hộ cháu Yến ra. Long nhấc chân trái cháu cháu Yến để sang phía ruộng, chân phải để ở lòng mương, cháu Yến nằm ngửa trên bờ mương, đầu hướng về thôn Tiền Sơn. Sau đó, Long đứng dậy, chân phải bước qua bờ mương sang phía ruộng, chân trái trong lòng mương, mặt hướng về thôn Tiền Sơn, tay phải đè vào ngực, cổ cháu Yến để thực hiện hành vi giao cấu.

Khi Long đưa dương vật vào sát âm hộ cháu Yến thì bị xuất tinh trùng lên bụng cháu Yến và đỉnh bờ mương. Vì đã xuất tinh trùng, thấy hết cảm hứng nên Long bế cháu Yến đi ngược bờ mương, vừa đi vừa hôn vừa cắn vào môi cháu Yến. Đi được khoảng 15 mét, Long đặt cháu Yến ở miếng bê tông bắc qua mương cứng, chân hướng về thôn Yên Lý, đầu hướng về xã Lam Cốt rồi đi lên hướng thôn Trám khoảng 20 mét để quan sát với ý định vất xác cháu Yến xuống cái chuôm ở giữa đồng, nhưng sợ gặp người đi lấy nước nên Long quay lại. Long bế cháu Yến đi xuôi hết mương cứng, rồi đi tiếp theo bờ đất được khoảng 20 mét thì lại đặt cháu Yến ngồi ở bờ ruộng của gia đình chị Thái – Vinh ở thôn Tiền Sơn, nhưng cháu Yến không ngồi được, Long không xem cháu Yến sống hay đã chết, cứ thế hất cháu Yến xuống mương nước rồi bỏ chạy. Chạy được khoảng 3 đến 4 mét thì Long bị vấp ngã, sau đó Long đứng dậy và đi rảo bước qua đường 297 về thôn Yên Lý, khi về đến sân bóng, Long đi tắt bờ ruộng về quán sát gạo nhà anh Nam và xuống ao rửa chân tay rồi vào sát gạo (lúc này chị Sổ đã sát gạo xong). Sau khi sát gạo và nghiền ngô xong, Long về nhà tắm rửa, ăn cơm tối cùng gia đình. Theo Long khai, lúc này nhìn đồng hồ của gia đình chỉ có 19 giờ 47 phút, và đến khoảng 21 giờ cùng ngày thì Long thấy thôn thông báo trên loa về việc cháu Yến bị mất tích, Long có sang nhà anh Sơn để xem việc tìm cháu Yến, đến khuya thì về nhà ngủ.

Sau khi đầu thú, Long tự vẽ sơ đồ đường đi gây án Ngày 31/10/2005, Cơ quan CSĐT đã tổ chức kiểm tra hiện trường theo sơ đồ và lời khai của Long để kiểm tra lại các tình tiết mà bị can Long đã thú nhận, kết quả kiểm tra thấy lời khai của bị can là có căn cứ, nên ngày 07/11/2005 Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bắc Giang đã ra quyết định phục hồi điều tra vụ án và ra Quyết định khởi tố bị can đối với Hàn Đức Long về 02 tội: Giết người và Hiếp dâm trẻ em, theo các Điều 93 và Điều 112 Bộ luật hình sự, Đồng thời ra Quyết định nhập 2 vụ án để điều tra.

Để kiểm tra, đánh giá tính khách quan và khả năng hành động theo lời khai của Long, ngày 22/11/2005, Cơ quan CSĐT đã tỏ chức thực nghiệm điều tra theo trình tự thủ tục tố tụng hình sự cho bị can thực hành các động tác bế cháu Yến đưa ra đồng rồi thực hiện hành vi hiếp dâm cháu Yến…. như đơn đầu thú, lời khai nhận tội, bản tường trình mà Long đã trình bày.

Quá trình hỏi cung bị can Long ở giai đoạn điều tra, Cơ quan CSĐT đã nhiều lần lấy lời khai và cho bị can tự viết bản tường trình, vẽ sơ đồ hiện trường về quãng đường đi gây án, trong đó có nhiều lần mời Kiểm sát viên của VIện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang cùng tham gia, Kiểm sát viên cũng đã trực tiếp hỏi cung bị can Long, bị can đều khai báo thành khẩn và xin được hưởng sự khoan hồng của pháp luật.

Ngày 19/1/2006, Cơ quan CSĐT ra Bản kết luận điều tra vụ án số 28/KL-PC14 đề nghị truy tố bị can Hàn Đức Long về 3 tội: Giết người, Hiếp dâm trẻ em, và Hiếp dâm.

Ngày 27/2/2006, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang có cáo trạng số 44/KSĐTKT-TA truy tố bị can Hàn Đức Long về 3 tội như Cơ quan điều tra đề nghị tại Bản án kết luận điều tra vụ án số 28/KL-PC14.

Ngày 22/1/2007, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang mở phiên tòa xét xử sơ thẩm bị cáo Hàn Đức Long. Căn cứ vào kết quả thẩm vấn tại phiên tòa, TAND tỉnh Bắc Giang ra quyết định và Tuyên phạt bị cáo Hàn Đức Long tử hình về tội: “Hiếp dâm trẻ em”, tù chung thân về tội “Giết người”. Riêng hành vi Hiếp dâm bà Khuyến và chị Năm thì chưa đủ căn cứ để kết tội với lí do: Khi thực hiện hành vi giao cấu với người bị hại, Long không có hành vi dùng vũ lực và các bị hại không kêu cứu, mặc dù nơi xảy ra sự việc gần nhà người quen.

Ngày 12/02/2007, bị cáo Long có đơn xin kháng án gửi đến TANDTC đề nghị xét lại bản án. Đến ngày 25/6/2007, Tòa phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm và quyết định y án sơ thẩm đối với bị cáo Hàn Đức Long (Tại bản án số 504/HSPT của TANDTC).

Sau phiên tòa phúc thẩm, gia đình bị can Long có đơn đề nghị gửi đến TANDTC. Ngày 03/3/2009, Chánh án TANDTC ra Quyết định số 08/2009 kháng nghị bản án phúc thẩm số 504 ngày 25/6/2007. Ngày 29/7/2009, Hội đồng thẩm phán TANDTC có Quyết định Giám đốc thẩm số 09/2009 hủy bản án hình sự phúc thẩm số 504/2007 ngày 25/6/2007 của Tòa phúc thẩm TANDTC và bản án sơ thẩm số 05/2007 ngày 31/1/2007 của TAND tỉnh Bắc Giang và đề nghị điều tra lại vụ án theo thủ tục chung để làm rõ các nội dung sau:

  1. 1.Làm rõ về thời gian bất minh của bị can Hàn Đức Long vào buổi chiều tối ngày 26/6/2005 tại quán sát gạo nhà anh Nam, sinh năm 1977 ở Yên Lý, Phúc Sơn, Tân Yên, Bắc Giang.
  2. 2.Cho thực nghiệm điều tra tại hiện trường để xác định thời gian tiêu thụ khi bị can thực hiện hành vi phạm tội.
  3. 3.Điều tra làm rõ một số dấu vết bầm tím hình cung ở vùng giữa trán tử thi là do tác động nào gây nên.
  4. 4.Theo kết quả giám định pháp y số 363/PY ngày 04/7/2005 của Tổ chức giám định kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang thì: “Tổn thương rách màng trinh và một phần da, cơ tầng sinh môn phía sau là do ngoại lực tác động lên, vật tác động nhiều khả năng là do dương vật của đối tượng tạo nên”. Tuy nhiên, tại các lời khai nhận tội của Hàn Đức Long thì Long không nhận có giao hợp với cháu Yến mà chỉ dùng 3 ngón tay thọc vào âm hộ cháu Yến. Do đó, cần có giải thích chính thức về tác động của hành vi này gây nên cơ thể nạn nhân cso phù hợp với kết quả giám định hay không?
  5. 5.Xác định rõ độ sâu, chiều dài của phần mương nước mà Hàn Đức Long đã lội khi thực hiện hành vi phạm tội, các định nhân chứng có ai nhìn thấy Long bị ướt quần áo khi về nơi sát gạo hay không?
  6. 6.Giám định tâm thần đối với Hàn Đức Long.

Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bắc Giang đã tiến hành điều tra lại vụ án và tập trung làm rõ theo các nội dung mà Quyết định giám đốc thẩm yêu cầu. Kết quả như sau:

  1. 1.Lấy lời khai của hai nhân chứng Đặng Thị Sổ và Nguyễn Thị Yên để xác định thời gian Long vắng mặt tại quán sát gạo của anh Diêm Quảng Nam.

Ngày 06/11/2009. Cơ quan điều tra đã mời chị Yên, chị Sổ đến trụ sở UBND xã Phúc SƠn để làm việc. Qua làm việc chị Sổ cho biết do thời gian đã lâu nên nay chị Sổ đã khong còn nhớ được vác tình tiết cụ thể, nhưng lời khai trước đây của chị với Cơ quna điều tra và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang là đúng sự thật (tức là khi chị Yên chuẩn bị xay sát gạo thì chị Sổ hỏi Hàn Đức Long cho sát trước). Tại các phiên tòa xét xử Hàn Đức Long, chị Sổ có được triệu tập đến phiên tòa, khi được thẩm vấn trước tòa, chị đã khai báo có những điểm mâu thuẫn không đồng nhất với những lời khai trước đó của mình là do sự việc đã xảy ra đã lâu, và khi được mời ra làm chứng trước tòa do tâm li nên chị không nhớ hết các chi tiết cụ thể.

Lời khai của chị Nguyễn Thị Yên cho đến nay chị vẫn khẳng định: vào buổi chiều ngày 26/6/2005, sau khi chị sát gạo xong thì đến lượt chị Sổ, chị Yên sát xong thì về luôn, không để ý thấy Hàn Đức Long, chị Yên không rõ việc chị Sổ hỏi Long cho sát trước khi chị Yên sát gạo ở giai đoạn nào. Như vậy căn cứ vào các tài liệu điều tra thu thập được thi Hàn Đức Long vắng mặt ở quán sát gạo nhà anh Diêm Quảng Nam trong khoảng thời gian chị Nguyễn Thị Yên và Đặng Thị Sổ đang sát gạo.

  1. 2.Kết quả thực nghiệm điều tra tại hiện trường để xác định về thời gian thực hiện hành vi phạm tội của bị can Hàn Đức Long

ngày 26//11/2009, Cơ quan điều tra tổ chức viện thực nghiệm điều tra, trước khi thực nghiệm điều tra Cơ quan điều tra có mời các thnafh phần tham gia gồm: đại diện chính quyền địa phương, người làm chứng, VKSND tỉnh, phòng Kĩ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang, lãnh đạo và Điều tra viên của Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bắc Giang và có sự tham gia của 04 Luật sư bảo vệ quyền lợi cho bị can.

Theo nội dung yêu cầu chọn người đóng thế bị can và hình nộm là vật có trọng lượng tương đương với trọng lượng của bị hại, Cơ quan điều tra đã mời người đóng thế bị can để tiến hành thực nghiệm điều tra là anh Nguyễn Văn Dị – SN 1959 ở thôn Tiền Sơn – Phúc Sơn – Tân Yên – Bắc Giang; anh Dị cao 1.53m, nặng 46 kg, thể trạng tương đương với bị can Hàn Đức Long – theo phiếu khám nghiệm sức khỏe do Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Giang lập khi Long nhập trại ngày 20/10/2005 (Long cao 1.29m; nặng 44kg; sức khỏe bình thường). Vật (hình nộm) đóng thế cháu Yến nặng 13,8kg, dài 1,12m; mương nước nơi tiến hành thực nghiệm điều tra có mực nước trung bình là 32 cm.

Thời gian tiến hành thực nghiệm điều tra bắt đầu từ 17h43′ ngày 26/11/2009 trong hoàn cảnh trời tối. Kết quả thực hiện hành vi từ lúc ôm hình nộm đóng giả cháu Yến tại cổng nhà anh Sơn đi theo đường bê tông theo sơ đồ hiện trường mà bị can khai đến khi thực hiện xong hành vi phạm tội quay trở về chỗ sát gạo tại quán nhà anh Nam hết 19 phút 25 giây. Sau khi kết thúc việc thực nghiệm điều tra, các luật sư tham gia bảo vệ quyền lợi cho bị can Long có ý kiến về việc anh DỊ khi thực nghiệm điều tra đi chân tất, ôm hình nộm không đúng với động tác mà bị can Long đã khai nhận (một tay ôm ngang bụng, một tay bịt mồm cháu Yến).

Để đảm bảo việc tiến hành thực nghiệm điều tra chính xác khách quan, đúng tư thế động tác mà bị can đã khai nhận, hồi 18h13′ ngày 01/01/2010 Cơ quan điều tra đã tổ chức thực nghiệm điều tra lại tại hiện trường có sự tham gia ủa 02 luật sư bảo vệ quyền lợi cho bị hai, riêng các luật sư bảo vệ quyền lợi cho bị can mặc dù đã được thông báo trước nhưng vắng mặt không rõ lý do. Người đóng thế bị can thực nghiệm điều tra là anh Nguyễn Văn Dị, vật đóng thế cháu Yến là hình nộm có trọng lượng 14kg, dai 1,1m, quá trình thực nghiệm điều tra anh Dị mặc quần cộc, chân trần, ôm hình nộm với tư thế một tay ngang bụng, một tay bịt mồm (theo tư thế, động tác mà Hàn Đức Long khai khi ôm cháu Yến); mương nước khi tiến hành thực nghiệm có mực nước trung bình là 34 cm. Kết quả thực nghiệm điều tra xác định việc tiêu thụ thời gian hết 19 phút 52 giây.

Tuy nhiên, các luật sư bảo vệ quyền lợi cho bị can Long không nhất trí với kết quả trên và yêu cầu việc tiến hành thực nghiệm điều tra lại phải có sự chứng kiến của các luật sư bảo vệ quyền lợi cho bị can Long và yêu cầu người đóng thế bị can thực hiện đủ các thao tác như lời khai của bị can Long. Đáp ứng các yêu cầu trên, này 16/7/2010 Cơ quan CSĐT tổ chức thực nghiệm lại lần hai, có sự tham gia của các luật sư bảo vệ quyền lợi cho bị can và cả luật sư bảo vệ quyền lợi cho bị hại. Người đóng thế bị can để thực nghiệm điều tra vẫn là anh Nguyễn Văn Dị; vật đóng thế cháu Yến là hình nộm 14.2kg, dài 1,10m; anh Dị mặc quần cộc, chân trần ôm hình nộm với tư thế một tay ôm ngang bụng, một tay bịt mồm; mương nước nơi tiến hành thực nghiệm điều tra được tiến hành trong điều kiện trời tối, có mưa, đường trơn trượt. Quá trình thực nghiệm điều tra được tiến ành trong điều kiện đúng, đủ các dộng tác mà Hàn Đức Long khai nhận khi thực hiện hành vi phạm tội. Kết quả thực nghiệm điều tra xác định việc tiêu thụ thời gian hết 20 phút 54 giây.

  1. 3.Kết luận về nguyên nhân có một số vết bầm tím hình cung trên vùng trán của nạn nhân Nguyễn Thị Yến

Theo lời khai của Hàn Đức Long đã thể hiện trong hồ sơ vụ án thì khi bắt cóc cháu Yến đưa ra cánh đồng, Long đã dùng tay trái ôm ngang bụng, tay phải bịt mồm cháu Yến và đưa ra cánh đồng để thực hiện hành vi phạm tội. Ngày 22/11/2005, Cơ quan điều tra đã tổ chức thực nghiệm điều tra cho bị can Long diễn lại toàn bộ hành vi phạm tội, trong đó có nội dung bị can dùng tay trái ôm ngang bụng, tay phải bịt mồm và bế cháu Yến đưa ra cánh đồng. Căn cứ vào lời khai của bị can cùng với những động tác mà bị can thực hiện trong quá trình thực ngiệm điều tra ngày 22/11/2005 cho thấy bị can long dùng lòng bàn tay phải bịt mồm, còn các đầu ngón tay tác động lên vùng giữa trán cháu Yến.

Ngày 28/9/2009, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bắc Giang có Quyết định số 155 trưng cầu Phòng giám định pháp ý Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Giang giải thích, làm rõ cơ chế hình thành dấu vết (các tổn thương vùng giữa trán và tổn thương âm hộ nạn nhân Nguyễn Thị Yến). Tại bản kết luận giám định dố 183/GĐPY ngày 1/11/2009 của Phòng giám định pháp y Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Giang, kết luận:

                     Việc bị can Hàn Đức Long dùng bàn tay phải bị mồm cháu Yến với tư thế, vị trí, động tác nêu trên thì các đầu ngón tay của bị can có thể tạo ra được các vết bầm tím hình cung ở vùng giữa trán của nạn nhân.

  1. 4.Giải thích thêm về nội dung trong Bản kết luận giám định pháp y số 363/PY ngày 04/7/2005 của Tổ chức giám định kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang về tổn thương rách màng trinh và một phần da cơ tầng sinh môn của nạn nhân Nguyễn Thị Yến.

Theo Bản kết luận giám định số 183/GĐPY ngày 1/1/2009 của Phòng giám định pháp ý Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Giang xác định: Việc Hàn Đức Long dùng 03 ngón tay của bàn tay trái thọc vào âm hộ cháu Yến có thể tạo ra tổn thương rách màng trinh và tầng sinh môn như trong kết luận của Bản giám định pháp y số 363/PY, không phải do dương vật người gây nên.

Do có sự mâu thuẫn giữa hai bản kết luận giám định 363 và 183 về nội dung: Vật gây ra tổn thương rách màng trinh và một phần da, tầng sinh môn phía sau của nạn nhân. Nên ngày 26/3/2010, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bắc Giang đã ra quyết định trưng cầu giám định lại đến Viện khoa học hình sự Bộ công an. Ngày 11/6/2010, Viện khoa học hình sự của Bộ công an có Bản kết luận giám định số 1344/C54, kết luận:

                     Tổn thương rách môi bé, tầng sinh môn, tiền đình âm đạo, màng trinh cháu Nguyễn Thị Yến do vật tày có tiết diện lớn hơn lỗ màng trinh và âm đạo tác động gây ra.

                     Dương vật người trưởng thành bình thường ở trạng thái cương cứng gây được tổn thương này.

                     Một người trưởng thành dùng 3 ngón tay 2, 3, 4 thọc vào âm hộ, âm đạo cháu Yến có thể gây ra được những tổn thương nêu trên.

  1. 5.Xác định chiều dài, độ sâu của đoạn mương nước từ cống Vôi tới cống Mới mà bị can đã lội quan khi thực hiện hành vi phạm tội.

Theo bị can Hàn Đức Long khi khai nhận hành vi bắt cóc cháu Yến, Long đã đi con đường đi ra cống Vôi rồi lội xuống mương nước đi ra cống Mới. Cơ quan điều tra đã tiến hành đo, xác định độ dài mương nước từ cống Vôi đến công Mới là 217m. (BL392).

Khi thực hiện hành vi phạm tội Long mặc quần đùi, mực nước chưa đến đầu gối (sâu khoảng 20 – 30 cm), do vậy quần áo của Long khó có thể bị ướt. Cơ quan điều tra đã làm việc với các nhân chứng có mặt tại quan sát gạo của anh Nam trong buổi chiều hôm 26/6/2005 nhưng các nhân chứng không để ý nên không có ai xác định được lúc sát gạo quần áo của Long có bị ướt hay không.

  1. 6.Kết quả giám định tâm thần đối với bị can Hàn Đức Long

Cơ quan điều tra đã thu thập toàn bộ tài liệu phản ánh về bệnh lý cũng như về cuộc sống sinh hoạt tại địa phương nơi bị can Long cư trú cũng nhưu quá trình bị tạm giam tại Trại tam giam Công an tỉnh Bắc Giang để phục vụ yêu cầu giám định tâm thần. Ngày 09/11/2009, Cơ quan CSĐT ra quyết định số 163 trưng cầu Trung tâm giám định pháp ý tâm thần tỉnh Bắc Giang giám định tâm thần cho bị can Hàn Đức Long, đồng thời đưa bị can đến bện viện tâm thần để theo dõi giám định từ ngày 18/11/2009 đến ngày 20/1/2010. Ngày 28/01/2010, Trung tâm giám định pháp ý tâm thần tỉnh Bác Giang có Bản án kết luận giám định số 01, kết luận:

                     Trước, trong và sau khi gây án, Hàn Đức Long không bị rối loạn tâm thần.

                     Trong khoảng thời gian diễn ra hành vi gây án Hàn Đức Long không bị rối loạn tâm thần, còn đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình.

  1. III.NHẬN XÉT, ĐỀ NGHỊ:

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ thu thập được, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bắc Giang thấy có đủ cơ sở kết luận các hành vi nêu trên của bị can Hàn Đức Long đã phạm vào các tội: Giết người, Hiếp dâm trẻ em và Hiếp dâm.

Đề nghị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang đưa truy tố bị can Hàn Đức Long về các tội danh nêu trên theo các điều khoản đã nêu trong Bản kết luận điều tra số 28/KL-PC14 ngày 19/1/2006 của CSĐT Công an tỉnh Bắc Giang.

Hồ sơ gồm:           bút lục, được đánh số thứ tự từ 01 đến hết./.

 

 

Nơi nhận:

VKSND tỉnh Bắc Giang.

Luật sư bào chữa cho bị can.

Luật sư bào chữa cho người bị hại.

Bị can.

PC 44 Công an tỉnh Bắc Giang.

Lưu PC45.

CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA