Bản án sơ thẩm lần 1 của TAND tỉnh Bắc Giang năm 2007a

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG

——————-

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

———————

Bản án số: 05/2007/HSST

Ngày 22,23,31/1/2007

 

NHÂN DANH

NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG

————

Với thành phần hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có: 

* Thẩm phán – chủ toạ phiên toà ông: Nguyễn Văn Trường.

+ Thẩm phán: ông Nguyễn Minh Năng

* Các Hội thẩm nhân dân:

1- ông : Dương Ngọc Thiều – Cán bộ nghỉ hưu

2- ông: Nguyễn Huy Trung- Cán bộ nghỉ hưu

3- ông: Nguyễn Văn Phó – Cán bộ nghỉ hưu

*Thư kí Toà án, ghi biên bản phiên toà : ông Nguyễn Thanh Lâm và ông Nguyễn An Ninh đều là cán bộ Toà án.

* Đại diện VKSND tỉnh Bắc Giang tham gia phiên toà ông:

Đặng Thế Vinh – Kiểm sát viên.

Trong các ngày từ 22,23 và 31/01/2007 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 167/HSST ngày 13/11/2006 đối với bị cáo:

HÀN ĐỨC LONG – sinh ngày 30/10/1959

Tại : Phúc Sơn, Tân Yên, Bắc Giang

TQ: Thôn Yên Lý, xã Phúc Sơn, Huyện Tân Yên, Bắc Giang

Dân tộc : kinh – Tôn giáo : Không – Quốc tịch: Việt Nam

Trình độ văn hoá 7/10 – Nghề nghiệp : Làm ruộng

Là Đảng viên đã bị tạm đình chỉ sinh hoạt.

Con ông : Hàn Đức Cảnh – Con bà: Đỗ Thị Tư ( đều đã chết)

Vợ: Nguyễn Thị Mai SN 1970, có 2 con lớn SN 1988, nhỏ SN 1989

Tiền án, tiền sự : Không

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/10/2005, hiện đang tạm giam ( có mặt tại phiên toà).

+Luật sư bảo vệ cho bị cáo:

1- ông Dương Minh Nhâm – Văn phòng luật sư Dương Minh Nhâm

2- ông Nguyễn An – Văn phòng luật sư Tân Giang.

Đều thuộc đoàn luật sư tỉnh Bắc Giang ( cả hai luật sư đều có mặt tại phiên toà)

+ Người bị hại:

1- Chị Trương Thị Năm – Sinh : 1960( có mặt).

2- Bà Ngô Thị Khuyến – Sinh: 1930( Vắng mặt có đơn xin xử vắng mặt vì ốm yếu)

3- Cháu Nguyễn Thị Yến ( đã chết )

Đại diện hợp pháp là anh Nguyễn Đình Sơn ( bố đẻ ) – sinh : 1973 và chị Đoàn Thị Liễu sinh năm 1989 ( mẹ đẻ) cả hai đều có mặt.

Cả chị Năm, Bà Khuyến, anh Sơn, chị Liễu đều trú quán tại thôn Yên Lý, xã Phúc Sơn, Huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang.( có mặt)

– Lụât sư bảo vệ quyền lợi cho bị hại Nguyễn Thị Yến : ông Lê Sĩ Hiệp văn phòng lụât sư Sơn Đông – Đoàn luật sư tỉnh Hà Tây ( có mặt khi thẩm vấn, tranh luận. Vắng mặt khi tuyên án).

Nhận thấy

Theo các tài liệu có trong hồ sơ và nội dung bản cáo trạng số 44 ngày 27/2/2006 của VKSND tỉnh Bắc Giang thì vụ án có nội dung như sau:

Khoảng hơn 19h ngày 26/6/2005 khi vợ chồng anh Nguyễn Đình Sơn – Chị Đoàn Thị Liễu ở thôn Yên Lý, xã Phúc Sơn, Huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang đi làm đồng về không thấy con gái là Nguyễn Thị Yến sinh tháng 7/2000 đâu, anh chị đã đi tìm nhiều nơi không thấy, nên đã báo cho chính quyền thôn để thông báo về việc cháu Yến bị mất, và tổ chức tìm cháu Yến suốt đêm 26/6/2005 nhưng không thấy.

Sáng ngày 27/6/2005 chị Hoàng Thị Hoa sinh 1969 ra đồng lấy nước thấy xác cháu Nguyễn Thị Yến duới lòng máng nước gần bờ ruộng của gia đình của chị Thái – Vinh, chị Hoa đã báo cho gia đình anh Sơn biết. 07 giờ sáng ngày 27/6/2005 cơ quan điều tra Công an tỉnh Bắc Giang và chính quyền địa phuơng đã tổ chức khám nghiệm hiện trường vụ án.

Hịên truờng của vụ án thể hiện:

Xác cháu Nguyễn Thị Yến đụơc phát hệin tại mương nước ở cánh đồng Sắn, giáp danh giữa thôn Tiền Sơn và thôn Yên Lý, xã Phúc Sơn, Huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang, phía Bắc cách 300m là đường tỉnh lộ 297, phía Nam cách 100m là nghĩa địa của thôn Yên Lý và thôn Tiền Sơn, phía Đông cách 60m là đường liên thôn Yên Lý -Tiền Sơn, phía Tây cách 50m là đường đi từ 297 vào nghĩa địa của thôn Yên Lý – Tiền Sơn.

Tại nơi phát hiện xác cháu Yến : lòng mương nuớc rộng 1,6m có nhiều cỏ, cây khoai nước, nước sâu 35cm từ mặt nước đến mặt bờ mương là 40cm, bờ mương rộng 1,2m; có đám cỏ bị dập nát kích thước (1,2m x 0.8m).

Cách vị trí phát hiện xác cháu Yến 20m về phía Đông có một chiếc quần lửng trẻ em màu vàng nhạt, hoa văn màu vàng đỏ. Mở rộng hiện trường 160m về phía Đông, vị trí này mương nước đuợc xây ( máng cứng) rộng 60cm nước trong lòng mương sâu 36cm, bờ mương xây bằng gạch trái xi măng cát rộng 25cm. Từ mặt nước đến mặt bờ mương là 20cm, bờ mương phía Bắc có đám chất màu đỏ đã khô kích thước (39 x 16) cm. Trong đám chất màu đỏ có một số lông, tóc, tại vị trí này bờ mương có vết xây sát còn mới kích thước ( 25 x 04)cm cách vị trí này về phía Đông là 16m là đường đi từ cánh đồng Sắn ra đường 297, trên đường có vết màu nâu nghi máu kích thước (03 x 1,5)cm

Cơ quan điều tra đã thu chất màu đỏ nghi máu, cọng rơm có dính chất màu đỏ nghi máu, một số lông, tóc trong đám chất màu đỏ, một số mảnh xi măng ở trên tường có chất màu đỏ nghi máu và dịch ở âm đạo cháu Yến gửi đi giám định.

Vịêc khám nghiệm tử thi Nguyễn Thị Yến cho thấy cháu Nguễn Thị Yến cao 1,07m, sát mi mắt phải có vết xây xước da kích thước (01 x 0,5)cm, vùng giữa trán có nhiều vết bầm tím hình cung diện rộng, tổng kích thước là (09 x 08)cm.

Giữa môi trên có tổn thương chà sát rỉ máu không rõ kích thước (1,5 x 91)mm. Vòng cổ phía trước hai bên sụn giáp trạng có nhiều vết xây sát da hình cung và thẳng kích thước ( 7,5 x 02)cm; vùng giữa ngực có đám tổn thương xây sát da không có kích thước (05 x 04)cm; sau bả vai trái có tổn thương xây sát da không rõ hình, kích thước (1,5 x 0,8) cm; vùng thắt lưng xây sát da hướng từ trên xuống tổng kích thước (10 x 05)cm.

Da lòng bàn tay chân nhăn nheo, bộ phận sinh dục bị rách mới hoàn toàn, lòng khí quản bị xung huyết, có dị vật lẫn bùn đất màu nâu đen. Kết luận : các tổn thương xây sát da bầm tím trên vùng trán, cổ và hai bên sụn giáp trạng là do ngoại lực tác động. Vật tác động nhiều khả năng là do các đầu ngón tay của đối tượng tạo nên. Tổn thương rách màng trinh và một phần da, cơ tầng sinh môn phía sau là ngoại lực tác động, vật tác động nhiều khả năng do “ dương vật” của đối tượng tạo nên. Nạn nhân chết do ngạt nước, trên cơ thể có nhiều tổn thương xây sát da bầm tím.

Bản kết luận giám định kĩ thuật hình sự số 1848 và 1849/C21 ngày 25/7/2005 của Vịên khoa học kĩ thuật hình sự – Bộ công an đã kết luận về các mẫu vật thu khi khám nghiệm hiện trường gửi giám định như sau:

– Không phát hiện thấy xác tinh trùng người trên miếng bông thu dịch âm đạo nạn nhân Nguyễn Thị Yến.

– Trên miếng bông và mảnh xi măng thu tại hịên trường có tinh trùng người, vì lựơng dấu vết ít và chất lượng dấu vết kém nên không thu được gen; có tế bào người, phân tích gen chỉ cho kết quả là máu của một người nữ ( XX) các gen khác không cho kết quả.

– Ba sợi lông thu được tại hiện trường đều là lông người, trong đó chỉ có một sợi lông có gốc, nhưng ít tế bào gốc, nên không phân tích được gen. Bốn sợi nghi tóc ghi thu lại hịên trường đều là tóc người. Trên cọng rơm ghi thu tại hiện trường không có tinh trùng người, có máu người, phân tích gen ( ADN) từ bốn sợi tóc, dấu vết máu trên cọng rơm và mẫu máu ghi thu trong dịch âm đạo nạn nhân Nguyễn Thị Yến cho thấy : bốn sợi tóc này và máu trên cọng rơm là tóc và máu của nạn nhân Nguyễn Thị Yến.

Việc điều tra vụ án sau nhiều tháng vẫn chưa xác định được đối tượng gây án, ngày 27/10/2005 cơ quan điều tra đã có quyết định số 19/PC14 tạm đình chỉ vụ án, và phát động nhân dân tố cáo các đối tượng có hành vi sờm sỡ, cưỡng bức đối với phụ nữ trong địa bàn.

Ngày 11/10/2005 bà Ngô Thị Khuyến sinh 1930 ở thôn Yên Lý – Phúc Sơn – Tân Yên – Bắc Giang khai báo với điều tra viên việc bà đã bị Hàn Đức Long cưỡng hiếp vào một ngày đầu năm 2005. Ngày 12/10/2005 chị Nguyễn Thị Chung là con dâu bà Khuyến đã có đơn gửi cơ quan điều tra tố cáo hành vi của Hàn Đức Long hiếp bà Khuyến hồi đầu tháng 02 âm lịch năm 2005. Ngày 13/10/2005 chị Trương Thị Năm có đơn tố cáo Hàn Đức Long đã hiếp chị ngày 20/7/2005 (âm lịch) và trình bày chị bị Long hiếp hai lần, một lần hồi tháng 6/2004( âm lịch), lần hai như trên.

Ngày 19/10/2005 Hàn Đức Long đựơc triệu tập đến làm việc tại Công an huyện Tân Yên để làm rõ sự tố cáo của bà Khuyến và chị Năm. Tại cơ quan công an huyện Tân Yên – tỉnh Bắc Giang. Hàn Đức Long đã làm đơn đầu thú và khai nhận các hành vi hiếp chị Năm và bà Khuyến cụ thể:

– Đối với bà Khuyến : Khoảng 14h ngày 04/3/2005 ( tức ngày 24/1/2005 âm lịch) bà Ngô Thị Khuyến sang nhà Long chơi, lúc này chỉ có một mình Long ở nhà, Long đã mời bà Khuyến vào nhà uống nước. Bà Khuyến vừa bước vào trong nhà thì Long đã ôm, vật bà xuống để hiếp. Bà Khuyến chống cự và dùng tay túm vào cửa, Long đã gỡ tay bà Khuyến, gỡ đựơc tay này thì tay kia bà Khuyến lại túm vào cửa, nên Long không vật được bà xuống đất. Long dùng tay tụt quần bà Khuyến nhưng bà đã túm giữ cạp quần nên không tụt được, Long đã luồn tay vào quần sờ âm hộ bà Khuyến, bà Khuyến vừa chống cự, vừa chửi Long và đe “ mày không buông ra, tao kêu con tao sang nó giết chết mày”. Sợ quá Long buông bà Khuyến ra và cho bà tiền xin bà tha thứ, nhưng bà không lấy tiền đã chửi Long và bỏ về:

– Đối với chị Năm:

Lần 1: Khoảng 21h ngày cuối tháng 6/2005 Hàn Đức Long nảy sinh ý định cưỡng hếip chị Trương Thị Năm sinh 1960 ở cách nhà Long khoảng 20met, nên Long đã đến nhà chị Năm. Khi thấy hai mẹ con chị Năm ở nhà, Long bảo con trai chị là Chuyên 12 tuổi xuống nhà Long xem vô tuyến đang có chương trình hay lắm. Khi cháu Chuyên đi rồi Long bảo chị Năm cho tao một cái ( ý nói cho giao cấu) chị Năm không đồng ý bỏ chạy ra sân. Long đuổi theo túm tay chị Năm bắt đứng dựa vào tường đầu hồi nhà, rồi y tụt quần của chị Năm và quần của y ra để giao cất với Chị Năm ngoài ý muốn.

Lần 2: Khoảng 10h sáng ngày đầu tháng 7/2005 chị Trương Thị Năm đến nhà Hàn Đức Long trả chiếc cuốc do chị mượn từ sáng, lúc này chỉ có một mình Long ở nhà. Long nảy sinh ý định hiếp chị Năm nên y bảo chị Năm khiêng hộ y bao thóc vào trong buồng nhà y. Khi chị Năm và Long khiêng bao thóc vào buồng xếp lên đống xong, Long ôm chị Năm và nói cho tao một cái. Chị Năm phản ứng nói Long không đựơc làm thế, nhưng Long cứ xông vào tụt quần chị Năm và tụt quần đùi của y xuống, rồi ghì chị Năm vào đống bao thóc giao cấu với chị Năm trong tư thế đứng. Sau khi đã giao cấu xong, Long kéo quần đùi lên, chạy ra đóng cửa và cầm chiếm gối vào trải chiếu xuống nền nhà, rồi túm tay chị Năm kéo nằm xuống định giao cấu tiếp, nhưng chị Năm không chịu đã túm chặt tay vào bao thóc, sợ những bao thóc đổ Long đã thôi và ra mở cửa cho chị Năm về. Chị Năm không tố cáo Long ngay vì nghĩ đến tình cảm làng xóm và xấu hổ, sợ ảnh hưởng tới con vì con gái chị đã lớn. Ngày 13/10/2005 chị đã nhờ chị Nguyễn Thị Chung viết đơn tố cáo hành vi hiếp chị của Hàn Đức Long vì chị đã biết ngoài việc hiếp chị, Long còn hiếp cả mẹ chị và sỉ nhục chị dâu, em dâu chị.

Quá trình điều tra làm rõ những hành vi trên của Hàn Đức Long, ngày 29/10/2005 Hàn Đức Long đã có đơn đầu thú về hành vi hiếp và giết cháu Nguyễn Thị Yến. Cụ thể như sau:

Khoảng 16h ngày 26/6/2005 Hàn Đức Long dùng xe cải tiến chở khoảng 40kg thóc và 10kg ngô ra quán sát gạo của anh Diêm Quảng Nam ở cùng thôn để sát thóc và nghiền ngô. Vì chưa có địên nên Long đã cầm chiếc liềm đem theo đi ra đồng cắt dây khoai lang về cho lợn, gửi xe thóc tại cửa quán nhà anh Nam. Khi đang băm rau lợn thấy có điện Long đã ra chỗ sát gạo, lúc này anh Hàn Đức Lương là cháu của Long đang sát gạo, Long đã lấy xe đạp của anh Lương đi về nhà làm một số việc. Khoảng 18h30’ Long đạp xe ra chỗ sát gạo, nhưng bố con ông Sọan và anh Xuân đã xin Long cho sát trước, Long đã nhường cho ông Sọan và anh Xuân sát trước, Long đi ra đồng gọi con là Hàn Đức Trọng đang chăn bò về nhà bắt vịt để thịt, rồi Long đi ra chỗ sát gạo. Trên đường đi ra chỗ sát gạo Long gặp ông Soạn đang đi về, ông Soạn có bảo Long đi nhanh lên vì đang vắng người. Ra đến quán sát gạo Long thấy anh Xuân vừa sát gạo xong, Long định bê thóc vào sát thì Chị Yến đèo thóc đến và bê thóc vào thẳng máy sát tranh sát trước, đồng thời chị Đặng Thị Sổ đem thóc đến sát và xin Long cho sát trước, Long đã nhường cho chị Sổ sát trước và đi ra ngồi ở càng xe cải tiến cạnh bờ ao trước quán sát gạo để chờ.

Long nhìn sang bờ ao bên kia cách khoảng 70m thấy anh Tiến là người cùng thôn đỗ xe máy ở gần bụi tre cạnh góc sân bóng, sau anh Tiến đèo một người đi ra đường 297 (sau này Long biết anh Tiến đèo anh Viên đi ăn cỗ ở Lam Cốt – Tân Yên ). Do chờ lâu đến lượt, đứng ngồi không yên, Long đã đi bộ sang quán bán hàng của gia đình anh Sơn, chị Liễu.

Trước khi Long đi đến quán của gia đình anh Sơn – chị Liễu thì diễn biến tại quán của chị Liễu như sau:

Chị Liễu đang nhổ lạc cùng với anh Sơn ở ngoài đồng thì cháu Yến con chị Liễu gọi chị Liễu về bán hàng;

Chị Liễu về quán bán hàng cho ông Nguyễn Văn Giang sinh năm 1953 ở cùng thôn một chai nước Côca để ông Giang uống ngay tại chỗ. Khi ông Giang đang uống nước thì có anh Lục cũng ở cùng thôn đến hỏi chị Liễu mua viên đá lạnh nhưng không có. Anh Lục đã mượn xe máy của ông Giang đi mua đá lạnh, sau về trả xe của ông Giang và đi về, khi anh Vinh đi đến anh Tiến đã đèo anh Vinh đi ăn cỗ. Chị Liễu đi ra đồng nhổ lạc và ông Giang cũng đi xe máy qua cạnh sân bóng vào nhà chị Dương Thị Nhân ở cùng thôn. Những người nói trên vừa đi khỏi quán của nhà chị Liễu cũng là lúc Long đi đến quán của nhà chị Liễu, trời lúc này đã nhá nhem tối. Long thấy cháu Nguyễn Thị Yến con chị Liễu – anh Sơn sinh tháng 7/2000 đang ngồi cạnh bụi tre trước sân cửa quán. Long hỏi cháu Yến “ Bố mày đâu?” Cháu Yến trả lời “ bố cháu đi nhổ lạc”. Long lại hỏi cháu Yến “ mày biết bán hàng không” cháu Yến trả lời “không”, Long hỏi “ mày biết bác không?” cháu Yến lắc đầu. Theo Long khai: lúc này xung quanh không có người, trời lại nhá nhem tối, y nảy sinh ý định bắt cháu Yến đưa ra đồng hãm hiếp rồi thủ tiêu lôn vì cháu Yến còn bé thì không ai biết việc mình làm của y ( BL 103). Long đi vòng ra sau lưng cháu Yến, cháu Yến ngoảnh cổ nhìn theo, Long dùng tay phải bịt mồm, tay trái ôm ngang người áp lưng cháu Yến vào bụng của Long và đi như chạy qua bụi tre cạnh sân bóng, theo đường bê tông ra hướng Cầu Vôi. Trong lúc Long ôm cháu yến như vậy thì cháu Yến cựa mạnh về kêu i i… Khi đi gần đến Cầu Vôi, Long nghe phía trước cách khoảng 20m có tiếng loạch xoạch như tiếng người đi xe đạp nên Long không dám đi trên đường nữa, y lội xuống lòng ngòi để đi sang cống mới. Khi đi đến gần đường Long quan sát thấy không có người đi trên đường, nên Long ôm cháu Yến chạy qua đường 297 theo bờ to ra cánh đồng Sắn. Khi cách mương cứng là nơi giáp danh giữa cánh đồng của thôn Yên Lý với cánh đồng của thôn Tiền Sơn – xã Phúc Sơn khoảng 15m, Long dùng tay trái xoa âm hộ cháu Yến ngồi trên bờ mương bên trái, hai chân thõng xuống lòng mương. Long ngồi bờ mương đối diện, hai chân đặt dứơi lòng mương, tay phải Long giữ vai cháu Yến, tay trái tụt quần của cháu Yến ra và ném xuôi theo dòng nước, không rõ quần rơi vào lòng mương hay vào ruộng. Long dùng ba ngón tay trái lách vào âm hộ cháu Yến, y thấy mát tay và cảm giác như máu chảy ở âm hộ cháu Yến ra. Long nhấc chân trái của cháu Yến để sang phía ruộng, chân phải để trong lòng mương, cháu Yến nằm ngửa trên bờ mương, đầu hướng về thôn Tiền Sơn. Long đứng dậy, chân phải phía bờ ruộng, chân trái trong lòng mương, mặt hướng thôn Tiền Sơn, tay trái Long vạch dương vật ra khỏi quần đùi và cúi người, tay phải y đè vào ngực, cổ cháu Yến để thực hiện hành vi giao cấu.

Khi Long đưa dương vật vào sát thì bị xuất tinh lên bụng Cháu Yến và đỉnh bờ mương, vì đã xuất tinh nên Long hết cảm hứng, y bế cháu Yến đi ngược bờ mương, vừa đi, vừa hôn và cắn vào môi cháu Yến. Đi đựơc khoảng 15m, Long đặt cháu Yến nằm ở miếng bê tông bắc qua mương cứng, chân hướng về thôn Yên Lý đầu hướng về xã Lam Cốt, Long đi lên hướng thôn Trám khoảng 20m nữa với ý định vứt xác cháu Yến xuống cái chuôm ở gĩưa đồng, nhưng y lại sợ gặp người đi lấy nước nên Long quay lại. Long bế cháu Yến đi xuôi hết mương cứng, rồi đi tiếp theo bờ mương đất, được khoảng 20m rồi Long đặt cháu Yến ngồi ở bờ ruộng của gia đình chị Thái – Vinh ở thôn Tiền Sơn, nhưng cháu Yến không ngồi được, Long không kiểm tra xem cháu Yến còn sống hay đã chết, cứ thể hất cháu Yến xuống mương nước rồi bỏ chạy, chạy được khoảng 03-04 m thì bị vấp ngã. Long đứng dậy rồi đi rảo bước qua đường 297 về thôn Yên Ly. Khi về đến đầu sân bóng Long đi tắt bờ rụông về quán sát gạo của anh Nam, xuống ao rửa chân tay rồi sát gạo, nghiền ngô ( lúc này chị Sổ đang sát gạo xong). Sau khi sát gạo nghiền ngô xong Long kéo về nhà, tắm rửa, rồi chặt thịt vịt và cùng gai đình ăn cơm tối. Theo Long khai y có nhìn lên đồng hồ của gia đình y thì thấy 19h47 phút. Khoảng 21h tối cùng ngày Long thấy thôn thông báo trên loa việc cháu yến bị mất tích, Long cầm đèn pin ra nhà nhà anh Sơn – chị Liễu để xem việc tìm cháu Yến đến khuya về nhà ngủ.

Quá trình điều tra Hàn Đức Long đã tự vẽ sơ đồ đường đi gây án (BL52) ngày 31/10/2005 cơ quan điều tra đã tổ chức kiểm tra lại hiện trường theo lời khai và sơ đồ do Long vẽ. Ngày 22/11/2005 cơ quan điều tra tổ chức thực nghiệm điều tra bằng cách cho Long diễn lại hành vi phạm tội tại địa điểm gần giống với hiện trường vụ án. Kết quả Hàn Đức Long đã diễn lại thành thục các động tác bắt cháu Yến đưa ra đồng, hãm hiếp rồi giết cháu Yến.

Ngày 19/1/2006 Hàn Đức Long được giao bản kết luận điều tra vụ án bị cáo Long không có ý kiến gì khác. Trong quá trình điều tra các điều tra viên và kiểm sát viên khi làm việc với bị cáo đã giải thích quyền được yêu cầu luật sư bào chữa, Hàn Đức Long không yêu cầu và xác định đã khai báo thành khẩn để đựơc hưởng sự khoan hồng. Ngày 09/12/2005 gia đình Hàn Đức Long có đề nghị được mời luật sư để bảo vệ quyền lợi cho các bị cáo, bị cáo đã chấp nhận các luật sư do gia đình mời.

Ngày 27/2/2006 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang tống đạt bản cáo trạng số 44/KSĐT – KT – TA ngày 27/2/2006 của VKSND tỉnh Bắc Giang cho bị cáo Hàn Đức Long. Bị cáo Long đã có ý kiến là không thực hiện hành vi phạm tội như bản kết luận của cơ quan điều tra và bản cáo trạng của VKSND tỉnh Bắc Giang đã quy kết và khai là đã bị đánh đập ép cung nên phải chấp nhận.

Tại các phiên toà ngày 16/5/2006 và phiên toà ngày 05/09/2006 bị cáo Long vẫn một mực kêu oan và tố cáo cụ thể các điều tra viên đã đựơc thực hiện việc ép cung nhục hình đối với bị cáo. Luật sư bảo vệ quyền lợi cho bị cáo và bị cáo khai báo và xuất trình tài liệu chứng minh việc bị cáo bị bắt giữ từ ngày 18/10/2005 chứ không phải là ngày 19/10/2005 như biên bản tiếp nhận người đầu thú của cơ quan điều tra lập.

Quá trình điều tra bổ sung ngày 06/06/2006 cơ quan điều tra đã cho thực nghiệm lại việc sát thóc và đã xác định được thời gian sát xong một bao thóc 40kg ( số thóc chị Yên và chị Sổ đem sát hôm 26/6/2005 là một ba tơ dứa đựng URê = 40kg) là 17 phút,5 giây. Ngày 13/6/2005 cơ quan điều tra đã kiểm tra cụ thể độ dài đường đi theo sơ đồ bị cáo vẽ và xác định được tổng chiều dài đường đi và về khi Long thực hiện hành vi gây án là 1756,60 mét. Cùng ngày 13/6/2006 ( chiều tối) cơ quan điều tra đã cho thực nghiệm điều tra bằng cách cho người ôm hình nộm là hai khúc cây chuối bó lại đi đường bị cáo đã đi và thực hiện các hành vi tương tự như bị cáo đã khai ( thuê anh Vang ở thôn Tiền Sơn – Phúc Sơn thực hiện). Kết quả xác định tổng số thời gian sử dụng như bị cáo Long khai ( bắt, ôm đi, hiếp , vứt xác, vấp ngã, rửa tay) là 19 phút 23 giây.

Vịêc tố cáo các điều tra viên đã bức cung, nhục hình bị cáo trong quá trình điều tra đã được điều tra xác minh theo quy định tại chương 35 bộ lụât tố tụng hình sự. Ngày 30/10/2006 Thủ trưởng cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bắc Giang đã có kết lận trả lời tố cáo sô 269/PC21 với các nội dung sau:

1- Bị cán Hàn Đức Long tố cáo các điều tra viên Triệu Văn Tùng, Lê Danh Thu, Đào Văn Biên, Lê Quốc Nhường trong quá trình điều tra vụ án đã có hành vi đánh đập, nhục hình mớm cung bị can là không có căn cứ.

2- Vịêc bị can có đơn tố cáo các điều tra viên nói trên gửi ông Viện trưởng VKSND tỉnh Bắc Giang sau khi nhận bản kết luận điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra ( ngày 19/1/2006) cho đến nay không có căn cứ để khẳng định bởi lẽ:

Điều tra viên và các cán bộ quản giáo của trại tạm giam trong thời gian giam từ 20/1/2006 cho đến nay không ai là ngừơi hướng dẫn hoặc chuyển đơn của bị can đến Viện kiểm sát nhân dân tỉnh.

3- Trong thời gian bị can giam giữ tại trại giam, bị can có tố cáo tại Toà về việc có xin dầu gió tại trạm y tế của trại để xoa vết thương do bị đánh. Qua xác minh thu thập từ ngày 20/10/2005 đến tháng 4/2006 bị can Long mới xin cấp phát thuốc để điều trị cảm cúm, viêm họng 1 lần. Số thuốc được cấp phát mà bị can Long đã nhận tháng 4/2006 không có “ dầu gió”. Như vậy, thời điểm cấp phát thuốc của trạm y tế cho bị can Long là sau khi cơ quan cảnh sát điều tra kết luận điều tra vụ án đối với bị can Long.

Ngày 02/11/2006 cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bắc Giang có bản kết luận điều tra bổ sung số 454/KL – PC14, đề nghị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang truy tố bị can Hàn Đức Long các tội “ Giết người” + “hiếp dâm trẻ em” + “hiếp dâm” theo cách điều 93,112,111 BLHS với nội dung tình tiết như bản kết luận điều tra số 28 ngày 29/1/2006.

Ngày 10/11/2006 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang có công văn số 1356/KSĐT – TA giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Hàn Đức Long theo bản cáo trạng số 44/KSĐTKT – TA ngày 27/2/2006 truy tố Hàn Đức Long ra trước TAND tỉnh Bắc Giang để xét xử về tội “ Giết người” theo điểm c,g khoản 1 điều 93 của BLHS; tội “ hiếp dâm trẻ em” theo khoản 04 điều 112 BLHS; tội “ hiếp dâm” theo điểm d, đ khoản 02 điều 111 BLHS.

Tại phiên toà hôm nay:

Bị cáo Hàn Đức Long vẫn khẳng định bị cáo không thực hiện được các hành vi như bản cáo trạng quy kết cho bị cáo, bị cáo nhận tội ở cơ quan điều tra là do bị đánh đập nhục hình, bị các điều tra viên mớm cung, khi chị Yến và chị Sổ sát gạo thì Long ra cửa ngồi.

Về ngày bị bắt giữ bị cáo vẫn khẳng định là ngày 18/10/2005, ngừơi đưa bị cáo đến “ Công an Tân Yên – Bắc Giang là anh Đài bạn của bị cáo” bị cáo xác nhận có ký một biên bản và có viết một đơn đầu thú tại Công an huyện Tân Yên. Sau khi bị đưa về trại tạm giam bị cáo có viết một đơn đầu thú về hành vi hãm hiếp và giết cháu Yến đơn viết ngày 29/10/2005. Bị cáo xác nhận các chữ ký ở cuối bản cung là do bị cáo ký nhận. Việc vẽ sơ đồ đường đi gây án là do bị cáo tự vẽ có sự giúp đỡ của điều tra viên Nhường vì tay bị cáo bị tật. Bị cáo xác nhận có viết một lá thư về cho vợ là Mai và một lá thư cho anh Báu là anh trai anh Sơn bố cháu Yến. Song tất cả các việc trên đều do các điều tra viên bắt ép viết theo nội dung họ đọc cho. Trong các lần đi cung bị cáo đều bị đánh bằng các hung khí là gây lim dài 70cm bản rộng bằng 3 ngón tay ( thước thợ xây) và cờ lê, bật lửa và bút bi( đập, bẻ ngón tay, đốt râu…) Trong thời gian bị tạm giam bị cáo có xin “ dầu gió” quản giáo Uớc để xoa vết thương, khi có kết lụân điều tra được chuyển xuống buồng chung bị cáo đã xin giấy bút của quản giáo Huy để viết đơn gửi ông Viện trưởng VKSND tỉnh Bắc Giang và gửi anh Huy đơn.

Lời nói sau cùng bị cáo kêu oan và đề nghị toà xét.

Chị Trương Thị Năm xác định bị Hàn Đức Long hiếp chị hai lần, một lần ở đống đá đầu hồi nhà chị hồi tháng 8/2004 vào buôỉ tối, lần thứ hai vào buổi sáng khoảng 10h vào ngày đầu tháng 7/2005 khi chị đến nhà Long trả cuốc, Long đã nhờ chị khiêng thóc vào buồng rồi ép chị vào tường hiếp chị. Chị xác định cả hai lần đều bị Long hiếp đứng, các lần bị Long hiếp chị có chống cứ nhưng không được, chị không dám kêu cứu vì xấu hổ, không dám tố cáo ngay vì nghĩ đến tình cảm làng xóm và con chị cũng đã lớn ( con gái) sợ ảnh hưởng đến việc lấy chồng của con, chị yêu cầu bị cáo bồi thường danh dự cho chị.

– Bà Ngô Thị Khuyến do ốm không đến phiên toà được, có đơn xin xử vắng mặt, bà vẫn giữ các yêu cầu đã trình bày ở cơ quan điều tra và ở các phiên toà trước, đề nghị xử lý nghiêm bị cáo và buộc tội bồi thường danh dự cho bà theo pháp luật.

– Anh Sơn và chị Liễu là bố mẹ cháu Yến đề nghị xử phạt Hàn Đức Long hình phạt cao nhất và yêu cầu bị cáo bồi thường tiền mai táng phí là 12.800.000đ. Tiền tổn thất tinh thần là 80 triệu đồng.

* các nhân chứng :

– Chị Nguyễn Thị Yên khai: khi chị đến là đem thóc vào xay ngay không để ý gì, nên cũng không biết Long có ở đó không, chị xác nhận hôm đó đi xay xát một bao tơ dứa đầy thóc là loại vỏ bao Ure phân đạm Hà Bắc.

– Chị Sổ xác định lời khai của chị với cơ quan điều tra là đúng và trình bày: Khi chị đến quán sát gạo của anh Nam thì thấy Hàn Đức Long định bê thóc vào xay sát, thì chị Yên bê thóc lên máy xay ngay chị đã xin Long cho chị xay trước, Long tỏ vẻ không bằng lòng nhưng cũng nhường cho chị xay sát trước, và đi ra ngoài, còn Long đi đâu, làm gì thì chị không biết. Chị xác nhận hôm đó xay sát một bao tơ dứa thóc.

– Anh Cường xác định khi anh đến quán sát gạo của anh nam thấy Hàn Đức Long đang ngồi ở càng xe cải tiếng sau không để ý vì phải trông con hộ chị Ngân vợ anh Nam. Anh xác định úc anh xay sát thóc là 20 giờ kém 15 phút vì anh có xem đồng hồ đeo tay và giục anh Nam xay thóc cho anh để về vì 20 giờ anh có hẹn bạn đến chơi.

– Anh Nam chủ máy sát gạo trình bày hôm 26/5/2005 điện yếu nên không cho máy chay cả hai đầu được, và thời gian xay sát lâu hơn lúc điện bình thường. Anh xác nhận chiều tối hôm đo có anh Lương đến xay sát trước, sau đó đến ông Sọan, anh Xuân, chị Yên, chị Sổ rồi đến Hàn Đức Long. Sau khi sát thóc trà gạo cho Long thì xay thóc trà gạo cho anh Cường xong rồi mới nghiền ngô cho Hàn Đức Long. Hôm đó Hàn Đức Long xay sát một bao tơ dứa thốc và nghiền 10kg ngô.

– ông Soạn xác nhận ông và con ông là Xuân đến quán sát gạo gặp Hàn Đức Long ở đó, ông đã xin Long cho bố con ông sát trước, sau khi sát xong ông đi về được khoảng gần 200m thì gặp Long ở nhà đi ra, ông có giục Long đi nhanh lên.

– Anh Xuân xác nhận lời khai của ông Sọan là đúng, anh xát xong có khiêng thóc cho chị Yên lên bệ máy sát còn luc đó Hàn Đức Long ở đâu anh không thấy, sau đó anh về ngay nên không biết gì khác.

– Anh Đàm Công Đài xác nhận có kèm Hàn Đức Long từ UBND xã Phúc Sơn đến Công an huyện Tân Yên nhưng không nhớ ngày nào, còn ngày 18/10/2005 anh viết trong giấy cam đoan là do anh Hàn Đức Lương là chú ruột anh Long bảo viết vậy. Anh xác nhận khi đưa Long đến Công an huyện Tân Yên thì Long giữ lại, trưa hôm đó anh đã đi ăn cơm với bạn anh là anh Quynh là cán bộ công an Tân Yên, sau đó thì đi thẳng về nhà không rẽ vào đâu cả.

* Các luật sư:

– Luật sư bảo vệ quyền lợi cho bị cáo: Đề nghị xem xét bị cáo bị bắt giữ là ngày 18/10/2005, kết quả giám định kỹ thuật hình sự chưa xác định được các dấu vết thu được ở hiện trường ( tinh trùng) là của bị cáo. Về mặt thời gian thì bị cáo về đến nhà là 19 giờ 47 phút, thời gian đóng điện là 17 giờ 46 phút, chia đều cho 6 người xay sát thì bị cáo không có đủ thời gian để gây án đối với cháu Yến. Còn về việc hiếp dâm chị Năm và bà Khuyến thì chỉ có lời tố cáo của phía bị hại không có chứng cứ nào khác ở phiên toà thì chị Năm trình bày bất nhất, lúc thì hiếp đứng, lúc khai hiếp nằm, bản thân chị Năm không kháng cự tự vệ, nếu chị Năm không đồng ý thì Long không giao cấu được. Đối với bà Khuyến thì lúc đó đã hơn 79 tuổi đi lại còn khó khăn xét về tâm lý Long là người không mắc bệnh tật nên không thể có việc đó. Còn bà Khuyến thì tại các phiên toà có mặt ( ngày 16/5 và ngày 5/9/2006) thì bà Khuyến khai không thống nhất với nội dung bản cáo trạng bà khai Long chỉ cầm tay bà và gạ gẫm bà, bà quát rộ thì Long đã thôi ngay.

Cả hai luật sư bảo vệ quyền lợi cho bị cáo Hàn Đức Long đều đề nghị toà tuyên bố Hàn Đức Long không phạm tội như bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

– Luật sư bảo vệ quyền lợi cho bị hại Nguyễn Thị Yến: Về thời gian bị cáo khai và các nhân chứng khai là không có cơ sở khoa học để chấp nhận, song trong thời gian chị Yên và bà Sổ xay sát gạo đã được thực nghiệm xác định là 35 phút, thì không có ai xác định Long ngoại phạm. Bản thân Long lại tự khai nhận tội, lời khai của Long trùng với dấu vết được thu thập khi khám nghiệm hiện trường và khám nghiệm tử thi. Bị cáo nói ra bị bức cung nhục hình là không có căn cứ. Đề nghị xử Long phạm tội “ hiếp dâm trẻ em”và tội “ Giết người”. Đề nghị buộc Long bồi thường theo yêu cầu của bị hại.

* Viện kiểm sát phân tích thời gian bất minh của bị cáo chiều tối ngày 26/6/2005 xác định thời gian Long khai là không có cơ sở chấp nhận, xác định thời gian đóng điện, thời gian anh Cường khai báo (19h45’) và thời gian xay sát thóc đã thực nghiệm là có căn cứ chấp nhận. Căn cứ thời gian thực nghiệm điều tra ngày 13/6/2006 thì Long có thừa thời gian để thực hiện hành vi phạm tội với cháu Yến. Bản thân bị cáo tự viết đơn đầu thú, xác nhận các bản cung, viết thu về cho vợ và anh Báu, tự vẽ sơ đồ. Lời khai của bị cáo là phù hợp với các chứng cứ khác thu thập được chứ không phải là chứng cứ duy nhất như các luật sư bảo vệ cho bị cáo lập luận. Có đủ căn cứ kết luận bị cáo phạm các tội “ hiếp dâm” + “ hiếp dâm trẻ em” + “ giết người” như bản cáo trạng số 44 ngày 27/2/2006 của VKSND tỉnh Bắc Giang đã truy tố.

Đề nghị áp dụng điểm h,o khoản 1 điều 48 BLHS và các điều 93 khoản 01 điểm c,g của BLHS; điểm d,đ khoản 2 điều 111 BLHS; khoản 4 điều 112 BLHS phạt Hàn Đức Long : Tử hình tội “ Giết người”, chung thân tội “ hiếp dâm trẻ em”; tù từ 08 đến 09 năm tội “ hiếp dâm”. Tổng hợp hình phạt theo điều 50 BLHS buộc bị cáo chịu hình phạt tử hình cho cả 3 tội. Tạm giam tiếp bị cáo theo khoản 4 điều 228 BLTTHS.

Buộc bị cáo bồi thường cho bà Khuyến và chị Năm mỗi người từ 02 triệu đến 03 triệu đồng, bồi thường cho anh Sơn chị Liễu số tiền mai táng cho cháu là 12.800.000đ và tiền tổn thất tinh thần là 12 triệu đến 15 triệu đồng.

Căn cứ vào chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên toà; lời khai của bị cáo, lời trình bày của các bị hại, đại diện hợp pháp của người bịhại, cả các nhân chứng, quan điểm bào chữa cuả các luật sư bảo vệ quyền lợi cho bị cáo, bị hại, quan điểm của kiểm sát viên tại phiên toà. Sau khi xem xét đánh giá đầy đủ toàn diện các chứng cứ đã thu thập trong hồ sơ vu án và tại phiên toà.

 

Xét thấy

Tại phiên toà bị cáo Hàn Đức Long hoàn toàn không thừa nhận tội như đã khai nhận ở cơ quan điều tra và khai là bị bắt giữ từ ngafy18/10/2005 việc nhận tội là do bị bức cung, nhục hình. Qua các lần công thẩm trước, tài liệu điều tra bổ sung và trình bày của những người tham gia tố tụng tại phiên toà hôm nay thì thấy:

– Về ngày bị cáo Hàn Đức Long bị bắt giữ: Căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ gồm biên bản tiếp nhận việc Hàn Đức Long ra đầu thú lập hồi 14h ngày 19/10/2005 và đơn xin đầu thú của Hàn Đức Long nộp cho cơ quan điều tra cùng ngày, công văn số 2201 ngày 07/6/2006 của Công an huyện Tân Yên- tỉnh Bắc Giang, thì ngày Hàn Đức Long bị bắt giữ là ngày 19/10/2005. Luật sư bảo về quyền lợi cho bị cáo cũng khẳng định ngày Long bị bắt giữ là ngày 18/10/2005 và đưa ra chứng cứ chứng minh là giấy cam đoan của anh Đoàn Công Đài là người trực tiếp kèm Long đến Công an Tân Yên hôm Long bị bắt giữ và giấy cam đoan của anh Nguyễn Ngọc Sơn xác nhận anhvà anh Minh có gặp anh Đài vào 11h trưa ngày 18/10/2005 tại quán ăn của anh Kiểm ở An Dương – Tân Yên là hôm anh Đài đưa Hàn Đức Long đến công an Tân Yên. Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay anh Đài xác nhận có kèm Hàn Đức Lương đến công an Tân Yên hôm Long bị bắt giữ về ngày tháng thì anh không nhớ rõ. Ngày ghi trong giấy cam đoan ( 18/10/2005) là ngày do Hàn Đức Lương bảo anh ghi thế hôm anh LƯơng đến nhà anh ( 01/09/2006) nhờ anh viết giấy cam đoan. Anh Đài xác nhận khi đưa Long đến Công an Tân Yên, anh ngồi đợi đến trưa ( khoảng 12h) anh Đài và anh Quynh là cán bộ công an huyện Tân Yên cùng ăn cơm trưa với nhau, sau đó anh Đài đi thẳng về nhà ở Đầm Lác – Việt Ngọc – Tân Yên chứ không vào quán nhà anh Kiểm ở An Dương gặp anh Sơn và anh Minh như anh Sơn đã viết giấy cam đoan.

Anh Quynh có lời trình bày xác nhận việc ăn cơm với anh Đài trưa hôm anh Đài đưa Hàn Đức Long đến Công an Tân Yên vì anh và anh Đài là bạn bè, ngày giờ cụ thể thì anh không nhớ vì không để ý.

Tại phiên toà anh Lương xác nhận việc đến nhà anh Đài nhờ viết giây cam đoan vào ngày 01/09/2006, ngày 18/10/2005 mà anh Đài viết trong giấy cam đoan là do anh bảo anh Đài viết, ngày đó là do một người chú của anh bảo anh.

Như vậy chứng cứ luật sư đưa ra để khẳng định Hàn Đức Long bị bắt ngày 18/10/2005 là không có căn cứ để chấp nhận. Có đủ cơ sở để khẳng định Hàn Đức Long bị bắt tạm giữ là ngày 19/10/2005.

– Về hành vi hiếp dâm chị Trương Thị Năm và bà Ngô Thị Khuyến thì thấy: Căn cứ vào sự tố cáo của chị Năm và bà Khuyến, đơn đầu thu nhận tội của Hàn Đức Long thì có đủ cơ sở xác định Hàn Đức Long đã có các hành vi đối với chị Năm và bà Khuyến như lời trình bày của chị Năm và bà Khuyến tại cơ quan. Hàn Đức Long đã phạm tội “ Hiếp dâm trẻ em” và tội “ giết người”. Tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 04 điều 112 BLHS và khoản 1 điều 93 BLHS.

Hành vi của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm tình dục của phụ nữ nói chung và trẻ em nói riêng, xâm phạm danh dự, và nhân phẩm của trẻ em. Trực tiếp xâm phạm quyền được sống của con người được pháp luật bảo vệ. Ngoài ra hành vi của bị cáo còn gây ảnh hưởng rất xấu đến trật tự trị an địa phương, đạo đức và truyền thống tốt đẹp của dân tộc, gây ảnh hưởng xấu đến uy tín của tổ chức Đảng ( bị cáo là Đảng viên). Quần chúng nhân dân và dư luận căm phẫn yêu cầu phải nghiêm khắc lên án bị cáo và có hình phạt thích đáng áp dụng đối với y.

Tính chất của vụ án là đặc biệt nghiêm trọng bởi lẽ với tư cách là một người đảng viên lẽ ra Hàn Đức Long phải là người gương mẫu đi đầu trong các công việc của thôn xóm nơi cư trú, đấu tranh chống các thói hư tật xấu, phát huy truyền thống, đạo đức tốt đẹp của dân toc, xây dựng cuộc sống văn minh. Song Long đã đi ngược lại, đã nhiều lần có hành vi quấy rối tình dục phụ nữ trong thôn xóm và đã có quan hệ bất chính với một số người bị các chị em phu nữ trong thôn xóm và đã có quan hệ bất chính với một số người bị các chị em phụ nữ tố cáo ( BL 131, 135,136).

Đỉnh cao của su tha hoá về đạo đức lối sống của Hàn Đức Long là hành vi sàm sỡ dâm ô với cả người già ( đối với bà Khuyến đã 76 tuổi) và hiếp dâm cả trẻ nhỏ ( đối với cháu Yến mới 05 tuổi) hậu quả đã cướp đi cả sự sống của cháu Nguyễn Thị Yến. Hàn Đức Long phải hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về hậu quả của hành vi mà bị cáo đã gây ra.

Đánh giá tính chất hành vi phạm tội của bị cáo thấy : Với mục đích thoả mãn dục vọng thú tính Hàn Đức Long đã bắt cháu Yến để đem đi hãm hiếp, hành vi Long đã thể hiện đối với cháu Yến để thoả mãn dục vọng là rất giả man tàn nhẫn, sau khi đã thoả mãn về dục vọng Long đã hất cháu Yến xuống mương nước rồi bỏ chạy, không biết là cháu Yến còn sống hay đã chết, dẫn đến cháu Yến đã bị chết ngạt trên cơ thể có nhiều vết thương.

Qua đó cho thấy hành vi hiếp dâm trẻ em bị cáo đã thể hiện ác tính cao hơn, do vậy cần có hình phạt cao nhất của pháp luật áp dụng đối với bị cáo ở tội này. Đối với tội “ Giết người” bị cáo đã phạm vào 2 tình tiết định khung quy định ở khoản 1 của điều 93 BLHS, đó là giết trẻ em theo điểm c và để che giấu một tội phạm khác theo điểm g của khoản 1 điều 93 BLHS. Do vậy cũng cần có hình phạt nghiêm khắc áp dụng buộc bị cáo chịu hình phạt không thời hạn mới bảo đảm sự trừng phạt kẻ ác và ngăn chặn, phòng ngừa, giáo dục chung.

Xét các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ của bị cáo thấy lúc đầu bị cáo đã thành khẩn khai báo tội lỗi, sau lại phản cung quanh co chối cãi vu cáo cho các điều tra viên hòng lẩn tránh trách nhiệm. Do vậy bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ hình phạt. Về tình tiết tăng nặng thấy bị cáo không phạm điểm h khoản 1 điều 48 BLHS vì bị cáo không bị kết tội “ Hiếp dâm” xong cần áp dụng tình tiết tăng nặng quy định tại điểm o khoản 1 điều 48 BLHS đối với bị cáo. Sau khi ấn định hình phạt riêng cho từng tội cần áp dụng điểm d khoản 01 điều 50 BLHS, tổng hợp hình phạt của hai tội thành hình phạt chung buộc bị cáo phải chấp hành.

Về trách nhiệm dân sự: thấy yêu cầu của anh Nguyễn Đình Sơn về bồi thường tiền mai táng phí 12.800.000đ là chấp nhận được vì nó không chỉ chi cho việc an táng cháu Yến, mà nó còn phải chi phí cho việc tìm kiếm cháu suốt đêm 26/6/2005 và các chi phí khác trước khi tổ chức mai táng. Về yêu cầu bồi thường tổn thất tinh thần anh Sơn yêu cầu được bồi thường 80.000.000đ là quá cao so với quy định của pháp luật. Theo quy định tại khoản 2, điều 610 BLDS thì số tiền bồi thường tổn thất tinh thần cho người thân thích của người bị xâm phạm tính mạng không quá 60 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định. Do vậy trong trường hợp này cần buộc bị cáo bồi thường tổn thất tinh thần cho anh Sơn – chị Liễu khoảng 55 tháng lương tối thiểu là đảm bảo ( 55 tháng x 450.000đ/ tháng = 24.750.000 đồng).

Về tang vật: Có 1 chiếc quần lửng trẻ em đã cũ giá trị không đáng kể cần tịch thu tiêu huỷ.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

I. Áp dụng điều 107 khoản 2 BLTTHS.

Tuyên bố: Hàn Đức Long phạm tội “ hiếp dâm trẻ em” và tội “ Giết người”. Không phạm tội “ hiếp dâm”.

II. Xử phạt : Áp dụng khoản 4 điều 112; điểm c,g khoản 1 điều 93; điểm o khoản 1 điều 48; điểm d khoản 1 điều 50; điều 35 BLHS và khoản 4 điều 228 BLTTHS.

Phạt : Hàn Đức Long tử hình tội “ hiếp dâm trẻ em” và tù chung thân tội “ Giết người”

Tổng hợp hình phạt của hai tội thành hình phạt chung là tử hình, buộc bị cáo phải chấp hành.

Tiếp tục tạm giam bị cáo để bảo đảm thi hành án.

III. Về trách nhiệm dân sự : áp dụng điều 42 BLHS điều 610 BLDS.

Buộc bị cáo Hàn Đức Long bồi thường cho vợ chồng anh Sơn- chị Liễu số tiền mai táng là 12.800.000đ, số tiền tổn thất tinh thần là 24.750.000đ. Tổng hai khoản là 37.550.000đ. ( ba bảy triệu năm mươi năm nghìn đồng chẵn).

IV. Về tang vật áp dụng điều khoản 02, điều 76 BLTTHS

Tịch thu tiêu huy 01 chiếc quần lửng trẻ em thu giữ theo vụ án.

V. Án phí.

Áp dụng dụng điều 99 BLTTHS

Buộc Hàn Đức Long phải chịu 50.000đ án phí HSST và 1.877.000 đ án phí dân sự sơ thẩm.

Các khoản tiền phải bồi thường kể từ ngày có yêu cầu thi hành án nếu bị cáo không nộp đủ thì phải chịu lãi suất theo quy định của pháp luật đối với số tiền chậm nộp thi hành án.

VI. Kháng cáo, kháng nghị: báo cho bị cáo Long, đại diện hợp pháp cho người bị hại Yến là anh Sơn – chị Liễu và chị Năm biết có hạn kháng cáo là 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án (31/1/2007)

Bà Ngô Thị Khuyến có thời hạn kháng cáo là 15 ngày tròn kể từ ngày nhận được tống đạt bản án.

Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật bị cáo có quyền gửi đơn xin ân giảm lên chủ tịch nước.

T/M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THÂM

THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

 

THẨM PHÁN

NGUYỄN VĂN TRƯỜNG